TỔNG THUẬT: Hội nghị Thủ tướng với doanh nghiệp

(Chinhphu.vn) – Sáng 11/8, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chủ trì Hội nghị toàn quốc giữa Thủ tướng Chính phủ với các doanh nghiệp có chủ đề “Chủ động thích ứng, phục hồi nhanh và phát triển bền vững”. Hội nghị diễn ra theo hình thức trực tiếp tại đầu cầu Hà Nội, kết nối với nhiều đầu cầu trên cả nước.

11/08/2022  11:32

TỔNG THUẬT: Hội nghị Thủ tướng với các doanh nghiệp  - Ảnh 1.
Hội nghị toàn quốc giữa Thủ tướng Chính phủ với các doanh nghiệp với chủ đề “Chủ động thích ứng, phục hồi nhanh và phát triển bền vững” – Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Cùng dự và điều hành Hội nghị có các Phó Thủ tướng Lê Minh Khái, Lê Văn Thành; đại diện lãnh đạo các ban, bộ, ngành, địa phương cùng nhiều doanh nghiệp trên cả nước.

Hội nghị được tổ chức nhằm đánh giá thực chất, khách quan các tác động của tình hình kinh tế thế giới đến Việt Nam, thực trạng, khó khăn, thách thức cộng đồng doanh nghiệp đang đối mặt, kết quả đạt được và chưa đạt được trong triển khai chính sách, giải pháp của Chính phủ thời gian qua.

Trên cơ sở nhận diện thời cơ, thách thức, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ mong muốn lắng nghe các chia sẻ, đề xuất, sáng kiến của cộng đồng doanh nghiệp, các hiệp hội để cùng tháo gỡ khó khăn, khắc phục những điểm nghẽn trong triển khai chính sách; đồng thời, hiến kế bổ sung các giải pháp trên tinh thần “lợi ích thì hài hoà, rủi ro thì chia sẻ”; góp phần phát triển kinh tế-xã hội nói chung, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, phát triển doanh nghiệp đúng hướng, lành mạnh, bền vững.
Tất cảTổng thuật                                     Mới nhất                                     Cũ nhất                                 11:32 ngày 11/08/2022

TỔNG THUẬT: Hội nghị Thủ tướng với doanh nghiệp  - Ảnh 1.
Thủ tướng cảm ơn sự đóng góp của cộng đồng doanh nghiệp vào những thành tựu, kết quả chung của đất nước; chia sẻ với các khó khăn, thách thức và cả hy sinh, mất mát mà các doanh nghiệp gặp phải trong thời gian qua – Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Phát biểu kết luận, Thủ tướng đánh giá cao các ý kiến, tâm huyết của cộng đồng doanh nghiệp, sự trao đổi thẳng thắn của đại diện các bộ, ngành, địa phương tại Hội nghị.

Thời gian qua, chúng ta đạt được những kết quả tích cực, khá toàn diện trên các lĩnh vực. Thủ tướng cảm ơn sự đóng góp của cộng đồng doanh nghiệp vào những thành tựu, kết quả chung của đất nước; chia sẻ với các khó khăn, thách thức và cả hy sinh, mất mát mà các doanh nghiệp gặp phải trong thời gian qua; chúc mừng các doanh nghiệp đã phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo, vượt khó vươn lên, có những doanh nghiệp thua lỗ, rút lui nhưng cơ bản các doanh nghiệp phát triển được trong bối cảnh vừa qua, đạt nhiều kết quả rất đáng trân trọng; kêu gọi các doanh nghiệp tiếp tục phát huy truyền thống, “đồng cam cộng khổ” cùng đất nước và nhân dân, khẳng định truyền thống của dân tộc ta là càng khó khăn, thách thức càng đoàn kết, thống nhất, nỗ lực, chủ động, sáng tạo, “biến nguy thành cơ”.

Thủ tướng mong muốn và tin tưởng cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam ngày càng bản lĩnh, lớn mạnh, cùng Đảng, Nhà nước và nhân dân xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ ngày càng cao gắn với tích cực, chủ động hội nhập sâu rộng, thực chất, hiệu quả, góp phần thực hiện mục tiêu xây dựng đất nước hùng cường, thịnh vượng, nhân dân ngày càng ấm no, hạnh phúc.

TỔNG THUẬT: Hội nghị Thủ tướng với doanh nghiệp  - Ảnh 2.
Thủ tướng trao đổi với lãnh đạo các bộ, ngành và đại biểu dự Hội nghị – Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Lắng nghe các ý kiến phát biểu, phản ánh tại Hội nghị, Thủ tướng khái quát, chia sẻ thêm về những nhóm khó khăn, thách thức chính  các doanh nghiệp đang phải đối mặt: Sức ép lạm phát, giá xăng dầu, nhiên, nguyên vật liệu đầu vào tăng cao; thiếu hụt lao động cục bộ; khó khăn trong tiếp cận vốn tín dụng phục vụ sản xuất, kinh doanh; cung và cầu bị ảnh hưởng lớn, tình trạng thiếu linh kiện, nguyên phụ liệu đầu vào để sản xuất, giảm đơn hàng cuối năm đang gia tăng, thị trường xuất khẩu có khả năng thu hẹp do các nước nhập khẩu đang gặp khó khăn, nhu cầu giảm; các vướng mắc, rào cản về pháp lý tồn tại từ lâu chưa được giải quyết triệt để; quy mô, năng lực, trình độ công nghệ của các doanh nghiệp còn hạn chế; việc tận dụng thành tựu của cách mạng công nghiệp lần thứ 4 chưa được như mong muốn, đổi mới sáng tạo còn hạn chế, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh… còn gặp khó khăn.

Thủ tướng cơ bản đồng tình với các giải pháp thời gian tới được nêu  trong báo cáo của Bộ Kế hoạch  và Đầu tư và các ý kiến của các bộ, ngành, địa phương tại hội nghị, nhấn mạnh thêm một số nội dung lớn mang tính chất nền tảng để nền kinh tế và cộng đồng doanh nghiệp tiếp tục phát triển.

Thứ nhất, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng, đảm bảo các cân đối lớn của nền kinh tế.

Thứ hai, thúc đẩy các loại thị trường phát triển mạnh mẽ, an toàn, lành mạnh, bền vững, công khai, minh bạch, như thị trường bất động sản, thị trường vốn, thị trường lao động…

Thứ ba, tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, cải cách hành chính, xây dựng nền kinh tế số, Chính phủ số, xã hội số, công dân số.

Thứ tư, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm trật tự xã hội, an ninh, an toàn, an dân; đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh, tạo công ăn việc làm cho người dân.

Thứ năm, các bộ, ngành, địa phương tổng rà soát lại các khó khăn, vướng mắc của tất cả các loại hình doanh nghiệp, đồng thời có kế hoạch xử lý, kịp thời, hiệu quả, giải quyết dứt điểm các khó khăn, vướng mắc theo chức năng nhiệm vụ, quyền hạn, nếu vượt thẩm quyền thì báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định.

Thứ sáu, thúc đẩy mạnh mẽ giải ngân các nguồn vốn đầu tư công (gồm vốn Trung ương và địa phương, vốn đầu tư công trung hạn, vốn từ chương trình phục hồi và phát triển, vốn tăng thu, tiết kiệm chi), dẫn dắt và kích hoạt mọi nguồn vốn trong xã hội, trong đó có nguồn vốn của doanh nghiệp.

Thứ bảy, làm tốt công tác nắm tình hình, nghiên cứu, dự báo chiến lược, cung cấp thông tin chính xác, kịp thời giúp doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh, đa dạng hóa các loại thị trường, đổi mới công nghệ, chuyển đổi số….

TỔNG THUẬT: Hội nghị Thủ tướng với doanh nghiệp  - Ảnh 3.
Hội nghị được tổ chức nhằm đánh giá thực chất, khách quan thực trạng, khó khăn, thách thức cộng đồng doanh nghiệp đang đối mặt – Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Thủ tướng nêu rõ các nhiệm vụ cụ thể trong ngắn hạn cần tập trung triển khai:

Một là, khẩn trương tháo gỡ các vướng mắc, rào cản về pháp lý tồn tại từ lâu chưa được giải quyết cản trở hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

Thủ tướng lấy ví dụ, Bộ Xây dựng khẩn trương nghiên cứu, đề xuất các giải pháp tháo gỡ khó khăn về pháp lý, thủ tục đầu tư xây dựng đối với các dự án thuộc lĩnh vực quản lý. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì phối hợp với các cơ quan, địa phương liên quan nghiên cứu, đẩy mạnh các giải pháp khắc phục “thẻ vàng” IUU của Liên minh châu Âu. Bộ Tài chính tiếp tục nghiên cứu, báo cáo, đề xuất các giải pháp về thuế, phí…

Hai là, tiếp tục hỗ trợ nhằm giảm thuế, phí xăng dầu, các nguyên, nhiên vật liệu đầu vào cho sản xuất kinh doanh; nghiên cứu phát triển vùng nguyên liệu thay thế nguyên liệu nhập khẩu

Ba là, tiếp tục triển khai đồng bộ, hiệu quả Chương trình phòng chống dịch COVID-19, đặc biệt là thần tốc hơn nữa trong tiêm chủng vaccine theo mục tiêu đã đề ra.

Bốn là, đẩy mạnh kết nối cung – cầu lao động, đào tạo, đào tạo lại cho người lao động nhằm đáp ứng yêu cầu thị trường. Chính phủ đã dành một khoản ngân sách cho vấn đề này trong chương trình phục hồi và phát triển; đang yêu cầu các cơ quan liên quan chuẩn bị tổ chức hội nghị về vấn đề này trong thời gian sắp tới.

Năm là, đẩy mạnh công tác quy hoạch, đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội nhằm nâng cao năng lực và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Thủ tướng khẳng định chưa bao giờ chúng ta dành nguồn lực lớn như trong nhiệm kỳ này cho phát triển hạ tầng chiến lược, đặc biệt là hạ tầng giao thông. Các doanh nghiệp tham gia vào các công trình hạ tầng chiến lược cũng phải vào cuộc trên tinh thần “lợi ích hài hòa, rủi ro chia sẻ”, chung sức, đồng lòng cùng cả nước vượt qua khó khăn trong bối cảnh hiện nay.

Sáu là, cải cách thể chế, cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh, cải thiện môi trường kinh doanh, đẩy mạnh triển khai thủ tục trực tuyến, tránh giao tiếp trực tiếp giữa người dân, doanh nghiệp và cơ quan nhà nước, đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt, không gây khó khăn mà tạo thuận lợi nhất cho doanh nghiệp, chống tham nhũng, tiêu cực, sách nhiễu, kể cả tham nhũng vặt.

TỔNG THUẬT: Hội nghị Thủ tướng với doanh nghiệp  - Ảnh 4.
Phó Thủ tướng Lê Minh Khái – Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Về các nhiệm vụ, giải pháp trong dài hạn, Thủ tướng yêu cầu:

Thứ nhất, tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, cải cách thực chất thủ tục hành chính; đẩy mạnh công tác xây dựng chiến lược ngành, quy hoạch, đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, tạo thuận lợi và niềm tin cho doanh nghiệp xây dựng định hướng đầu tư sản xuất kinh doanh dài hạn và bền vững.

Thứ hai, thúc đẩy chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo trong doanh nghiệp.

Thứ ba, tăng cường hiệu quả triển khai các chính sách và nguồn lực hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh, chủ động hội nhập quốc tế, nắm bắt và đón đầu các xu hướng kinh doanh mới, xu hướng thị trường mới.

 Đối với cộng đồng doanh nhân, hiệp hội doanh nghiệp, Thủ tướng đề nghị các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp cần phát huy vai trò trong hỗ trợ doanh nghiệp thành viên, đặc biệt đẩy mạnh các hoạt động kết nối, giúp các doanh nghiệp cùng nhau vượt qua khó khăn hiện nay, thích ứng với giai đoạn mới.

Chủ động đổi mới mô hình sản xuất kinh doanh, tái cấu trúc doanh nghiệp gắn với chuyển đổi số, đổi mới và sáng tạo để tìm ra cơ hội trong thách thức, xoay chuyển và thích ứng; nâng cao năng suất, năng lực, sức cạnh tranh; quan tâm đến việc giữ chân người lao động, tái cấu trúc lao động; đầu tư hơn nữa cho công nghệ, nguồn nhân lực chất lượng cao, trình độ quản lý và quản trị doanh nghiệp; tạo chuẩn giá trị mới, quan tâm hơn đến phục vụ người dân và nhu cầu trong nước; mở rộng thị trường, tiến tới tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Thủ tướng nhấn mạnh, yếu tố quan trọng nhất để doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả, bền vững là con người, cùng với công nghệ và phương thức, mô hình kinh doanh. Đảng và Nhà nước ta đã xác định con người là trung tâm, là chủ thể, là mục tiêu và là động lực, các doanh nghiệp cũng phải quán triệt tinh thần này.

Trong điều kiện hiện nay, doanh nghiệp cần tiếp cận và ứng dụng những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào sản xuất, kinh doanh. Phát triển doanh nghiệp Việt Nam không chỉ sẵn sàng tham gia vào chuyển giao công nghệ mà còn có khả năng đổi mới, sáng tạo ra những tiến bộ công nghệ mới.

Cần tiếp tục nêu cao tinh thần dân tộc, đoàn kết thống nhất, chung sức đồng lòng, phát huy tính chủ động, tự lực, tự cường, nỗ lực vượt qua khó khăn, thách thức; tăng cường hợp tác nhằm phát triển bền vững; đi cùng nhau, tất cả cùng chiến thắng.

TỔNG THUẬT: Hội nghị Thủ tướng với doanh nghiệp  - Ảnh 5.
Phó Thủ tướng Lê Văn Thành – Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Thủ tướng mong muốn cộng đồng doanh nhân cần nêu cao tinh thần tự hào dân tộc, ý thức tuân thủ pháp luật, thực hiện liêm chính trong kinh doanh, xây dựng văn hóa doanh nghiệp, đạo đức doanh nhân và trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, cạnh tranh lành mạnh, chia sẻ và liên kết hợp tác, đổi mới sáng tạo, nâng cao năng lực cạnh tranh để phát triển kinh tế đất nước.

Doanh nhân Việt Nam cần tiếp tục nỗ lực xây dựng đội ngũ doanh nhân có bản sắc Việt Nam: có lòng yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc, có bản lĩnh, trí tuệ, ý thức tuân thủ pháp luật, thực hiện liêm chính trong kinh doanh; có khát vọng vươn lên làm giàu cho mình, cho đất nước, có trách nhiệm với người lao động, với cộng đồng, xã hội và có đạo đức, văn hoá kinh doanh, góp phần chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.

“Lịch sử dân tộc Việt Nam đã chứng minh: tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc và sức mạnh đoàn kết đã giúp Việt Nam “nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Vì một cộng đồng doanh nghiệp chủ động thích ứng, phát triển bền vững góp phần xây dựng một Việt Nam hùng cường và thịnh vượng, nhân dân ấm no và hạnh phúc, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ luôn đồng hành, sát cánh, chia sẻ, tiếp thu tối đa các ý kiến của tổ chức hiệp hội, cộng đồng doanh nghiệp, của doanh nghiệp, đồng thời, đề nghị cộng đồng doanh nghiệp, doanh nhân tiếp tục giữ vững niềm tin, nêu cao tinh thần đoàn kết, tự lực, tự cường vượt qua khó khăn. Mỗi doanh nhân, mỗi doanh nghiệp hãy là một chiến sĩ tinh nhuệ, quả cảm, bản lĩnh trên mặt trận kinh tế, nỗ lực cùng Chính phủ sớm giành được chiến thắng trong cuộc chiến đấu với đại dịch COVID-19 và phục hồi, phát triển bền vững”, Thủ tướng phát biểu.

Thủ tướng chúc cộng đồng doanh nhân Việt Nam sức khỏe, bền bỉ, tự tin, vững bước vượt qua khó khăn, thách thức hiện nay, phát triển ngày càng lớn mạnh về số lượng và chất lượng, xây dựng hình ảnh doanh nhân có bản sắc Việt Nam, tiếp tục đóng góp nhiều hơn vào quá trình xây dựng đất nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” với tinh thần “lợi ích hài hòa, rủi ro chia sẻ”, cân bằng lợi ích giữa Nhà nước, người dân và doanh nghiệp.v 11:23 ngày 11/08/2022

TỔNG THUẬT: Hội nghị Thủ tướng với doanh nghiệp  - Ảnh 1.
Bộ trưởng Bộ LĐTB&XH Đào Ngọc Dung: Phải đảm bảo hài hoà giữa lợi ích, giữa doanh nghiệp sử dụng lao động với người lao động; giải quyết khan hiếm lao động cục bộ ở một số ngành – Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Bộ trưởng Bộ LĐTB&XH Đào Ngọc Dung: Nhiều người đang băn khoăn thị trường lao động Việt Nam trong giai đoạn vừa qua có vấn đề gì. Chúng ta nhìn rộng ra, sự ổn định và phục hồi của thị trường lao động rất nhanh, cho đến nay toàn bộ lao động của quý II là giai đoạn phục hồi mạnh mẽ nhất trong 2 năm qua. Số lao động bị ảnh hưởng tiêu cực vì đại dịch ngày càng giảm đi. Số lao động tham gia vào lực lượng lao động tăng lên. Số lao động có việc làm tăng mạnh, đặc biệt là thị trường dịch vụ. Mỗi quý bình quân chúng ta tăng khoảng 900.000 lao động trong khu vực dịch vụ.

Nếu như tính so với thời kỳ quý III năm 2021, đó là bước tiến bộ rất nhanh. Tỉ lệ thất nghiệp thấp, thiếu việc làm thì giảm đều, thu nhập bình quân của người lao động trong quý II này tăng lên cao.

Các chính sách hỗ trợ của chúng ta thời gian qua đã mang lại nhiều hiệu quả thiết thực. Theo báo cáo của Ủy ban Kinh tế-xã hội của Quốc hội, tổng số tiền hỗ trợ của chúng ta khoảng 146 nghìn tỷ đồng. Hiện nay vẫn đang tiếp tục thực hiện các chính sách cho người lao động

Tuy nhiên, chúng ta đang thiếu cục bộ tình trạng lao động ở một số địa bàn, tình trạng lao động nhảy việc nhiều hơn. Chất lượng lao động vẫn thấp, đặc biệt là lực lượng lao động chất lượng cao thiếu hụt nghiêm trọng.

Từ đó, cách tiếp cận của chúng ta phải thay đổi. Phải đảm bảo hài hoà giữa lợi ích, giữa doanh nghiệp sử dụng lao động với người lao động. Phải giải quyết khan hiếm lao động cục bộ ở một số ngành. Riêng trong ngành dịch vụ, du lịch phải có chính sách rất đặc thù.

Chính phủ sẽ tổ chức hai chuyên đề trong năm nay: Phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiện đại, bền vững và hội nhập; Diễn đàn về lao động việc làm.11:15 ngày 11/08/2022

TỔNG THUẬT: Hội nghị Thủ tướng với doanh nghiệp  - Ảnh 1.
Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng: Lắng nghe ý kiến của doanh nghiệp, NHNN cảm nhận áp lực từ nhiều phía – Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng: NHNN đồng tình với báo cáo của Bộ KH&ĐT đồng thời nhận thức rằng đây là Hội nghị quan trọng, đúng tinh thần chủ trương của Thủ tướng Chính phủ luôn chỉ đạo: Lấy người dân và doanh nghiệp làm trung tâm.

NHNN và ngành ngân hàng nói chung rất chia sẻ với những khó khăn của doanh nghiệp, nhất là những doanh nghiệp gặp phải khó khăn trong thời gian vừa qua bị ảnh hưởng bởi đại dịch COVID-19. Toàn ngành ngân hàng đã thực sự chia sẻ với doanh nghiệp và người dân, thể hiện qua các giải pháp chính sách trong suốt giai đoạn 2020-2021 và thể hiện bằng những con số rất cụ thể. Ví dụ, toàn ngành đã có chính sách miễn, giảm lãi suất, phí cho doanh nghiệp và người dân. Nguồn này chính là nguồn lực tài chính của hệ thống ngân hàng. Tính toán của các đơn vị chức năng cho đến nay là tổng khoảng 50.000 tỷ đồng. Trong lúc doanh nghiệp khó khăn, NHNN đã ban hành các chính sách cho phép các tổ chức tín dụng cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn giảm lãi vốn vay, giữ nguyên nợ. Bằng cách này có thể giúp doanh nghiệp vay vốn của hệ thống ngân hàng khi gặp khó khăn và chưa trả nợ được.

Lắng nghe ý kiến của doanh nghiệp, NHNN cảm nhận áp lực từ nhiều phía. Ví dụ đối với lãi suất, doanh nghiệp muốn giảm, nhưng người gửi tiền trong bối cảnh lạm phát tăng cao cũng cần có mức lãi suất phù hợp.

Trong tổng hợp báo cáo của các đơn vị gửi ngân hàng, có doanh nghiệp xuất khẩu đề nghị phá giá đồng Việt Nam. Trong khi đó, các doanh nghiệp nhập khẩu lại phản ánh nếu đồng Việt Nam phá giá thì làm cho các doanh nghiệp nhậu khẩu bị nhỡ. Trên thực tế, có thời điểm trước khi giảm giá đồng Việt Nam 9,2%, có nhiều doanh nghiệp phải phân bổ điều chỉnh tỉ giá trong nhiều năm. Về tín dụng, tháo gỡ tín dụng cho thị trường BĐS nhưng nhiều doanh nghiệp sản xuất kinh doanh vẫn muốn tập trung vốn vào lĩnh vực sản xuất, kinh doanh. Đây là áp lực lớn đối với NHNN và đặc biệt là với Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ trong điều hành kinh tế vĩ mô.

Từ góc độ như vậy, NHNN điều hành chính sách tiền tệ làm sao để kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, ổn định được thị trường tiền tệ ngoại hối, bảo đảm an toàn hoạt động của các tổ chức tín dụng. Chúng ta đã trải qua giai đoạn lạm phát tăng cao, tỉ giá biến động mạnh, cuộc đua lãi suất, hệ thống tổ chức tín dụng đối mặt với khó khăn về thanh khoản chi trả cho người gửi tiền. Nhiều doanh nghiệp vẫn chưa quên giai đoạn đó. Vì vậy, sự ổn định kinh tế vĩ mô, ổn định thị trường tiền tệ ngoại hối là điều quan trọng, tạo lập sự ổn định vĩ mô để phục hồi nhanh và phát triển bền vững.

Trong 6 tháng đầu năm, mặc dù tình hình khó khăn chung nhưng dưới sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, đặc biệt là Thủ tướng Chính phủ, hằng ngày, hằng giờ, NHNN đã cố gắng điều hành cơ bản ổn định thị trường tiền tệ ngoại hối, góp phần kiểm soát lạm phát và kinh tế vĩ mô. Trong thời gian tới vẫn phải triển khai những công việc còn tồn đọng, khó khăn trước như tái cơ cấu các ngân hàng 0 đồng…

Riêng về tín dụng, việc xác định tăng trưởng tín dụng như thế nào để bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, góp phần kiềm soát lạm phát và bảo đảm an toàn hoạt động cho các ngân hàng, NHNN khẳng tín dụng phải đạt được mục tiêu như vậy. Việc cấp tín dụng do tổ chức tín dụng tự thỏa thuận với khách hàng và phải bảo đảm theo quy định của pháp luật.

Đối với tăng trưởng tín dụng, thời gian tới NHNN sẽ rà soát, điều chỉnh nốt phần tăng trưởng tín dụng của dữ liệu 14% còn lại; tiếp tục theo dõi diễn biến lạm phát để phối hợp với các bộ ngành tham mưu cho Chính phủ đạt những mục tiêu đề ra.

Đối với thị trường bất động sản, nguồn vốn của BĐS giải quyết được rất nhiều “kênh” từ FDI, thị trường chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp và tín dụng chỉ là 1 kênh. Với ý kiến của Hiệp hội BĐS về việc kiều hối cũng là nguồn đầu tư BĐS nhưng trong bối cảnh tỉ giá USD mạnh lên, lãi suất quốc tế tăng lên trong khi chúng ta yêu cầu trong nước phải ổn định lãi suất thì dòng kiều hối sẽ hạn chế vào, thậm chí còn chuyển ra. Như vậy đặt áp lực cho NHNN về điều hành tỉ giá. Câu chuyện đó là bài toán tổng thể, chính sách tiền tệ là một trong những chính sách về kinh tế vĩ mô đó.11:07 ngày 11/08/2022

TỔNG THUẬT: Hội nghị Thủ tướng với doanh nghiệp  - Ảnh 1.
Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà: Chất lượng sản phẩm về môi trường của Việt Nam phải hài hoà với các thị trường chúng ta trao đổi, làm ăn – Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trườngTrần Hồng HàThứ nhất, về chủ đề của cuộc hộp hôm nay, Thủ tướng đặt ra vấn đề chủ động thích ứng như thế nào? Các doanh nghiệp đã nói về những cách thức tháo gỡ khó khăn, vướng mắc như đứt gãy chuỗi giá trị, hay vấn đề cạnh tranh, độc lập, tự chủ, khủng hoảng năng lượng, phụ thuộc về nguyên liệu sản xuất,… Hay vấn đề biến đổi khí hậu cũng là thách thức lớn. Đằng sau những thách thức, doanh nghiệp cũng tìm thấy cơ hội để thích ứng, phát triển.

Theo tôi, phải tập trung xác định đúng và trúng vấn đề ưu tiên, việc triển khai phải dựa trên Nghị quyết của Đảng, các nghị quyết của Quốc hội, các chiến lược quy hoạch.

Thứ hai, vượt qua thách thức thế nào thì cần phải tính toán kỹ, quan trọng nhất là phải chủ động nắm bắt, làm chủ được các công đoạn, nâng cao chất lượng và hiệu quả kinh tế. Mỗi ngành, lĩnh vực có tính chất riêng, tiêu chuẩn riêng, nhất là liên quan đến chuyển đổi xanh, chuyển đổi số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn để tạo ra giá trị mới.

Về môi trường, nếu theo các FTAs, các công ước tham gia và Luật Bảo vệ môi trường 2020, vấn đề đặt ra là làm sao chúng ta hài hoà được hệ thống tiêu chuẩn, tiêu chí để tham gia thương mại toàn cầu, vượt qua các hàng rào thương mại.

Bộ Tài nguyên và Môi trường luôn đồng hành với doanh nghiệp nhưng có một vấn đề cần lưu ý. Đó là nếu chúng ta không có được tiêu chuẩn, quy chuẩn phù hợp với các thị trường khác về môi trường thì sẽ khó khăn, và phát sinh các hàng rào như về biến đổi khí hậu và một số vấn đề khác nữa.

Tôi muốn nhấn mạnh môi trường Việt Nam, chất lượng sản phẩm về môi trường của Việt Nam phải hài hoà với các thị trường chúng ta trao đổi, làm ăn. Nếu có vướng mắc từ phía Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ sẵn sàng đối thoại cùng doanh nghiệp và tiếp thu, sửa đổi. Tương tự các vấn đề quan trọng khác như đất đai cũng làm việc trên tinh thần cầu thị, mạnh mẽ, kiên định như vậy.11:02 ngày 11/08/2022

Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lê Minh Hoan: Thủ tướng đã chỉ đạo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có cuộc gặp mặt các doanh nghiệp thủy sản và các doanh nghiệp, hiệp hội hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp. Xin báo cáo Thủ tướng, chúng tôi đã rà soát các nội dung cần thiết và sẽ đăng ký với Văn phòng Chính phủ để tổ chức.

Như Thủ tướng đã nghe VASEP trình bày, con số tương tự như thủy sản thì trong lâm sản và những mặt hàng nông nghiệp khác, doanh nghiệp nội chiếm tỉ trọng vượt trội hơn doanh nghiệp ngoại, chứng tỏ nội lực của các doanh nghiệp nội trong các hiệp hội, ngành hàng còn rất lớn. Mỗi ngành hàng đều có tiềm năng và dư địa phát triển. Tất nhiên cùng với đó vẫn kèm theo những rủi ro. Có lẽ cuộc gặp mặt đó, các doanh nghiệp, hiệp hội sẽ trình bày với Thủ tướng được rõ hơn. Chúng tôi có nhiệm vụ tổng hợp các thông tin báo cáo Thủ tướng.

Ở đây tôi nói hai quan điểm tiếp cận của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đối với các doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng cũng như các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp. Chúng tôi mong muốn sự đồng hành, kiến tạo, sự phát triển nông nghiệp nông thôn theo nghị quyết về nông nghiệp, nông dân, nông thôn và theo chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn mà Thủ tướng đã phê duyệt.

Chúng tôi quan niệm rằng, một mình Bộ không thể cải hóa được các vấn đề nội tại của ngành nông nghiệp và con đường phát triển của nông nghiệp không thể thiếu các hiệp hội, ngành hàng, thiếu các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp.

Do đó, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã giao cho một cơ quan của Bộ chuyên trách những vấn đề đối với hiệp hội, ngành hàng trong lĩnh vực nông nghiệp. Chúng tôi cũng xác định rằng các doanh nghiệp, hiệp hội, ngành hàng không phải đối tượng để quản lý mà là đối tác cùng đồng hành trong sự kiến tạo không gian phát triển từ dự thảo hoạch định chính sách, cơ chế, thể chế cho tới quy hoạch phát triển ngành. Mỗi ngành hàng đều phải có tiếng nói của cộng đồng doanh nghiệp, hiệp hội.

Ngược lại, những vấn đề khó của hiệp hội ngành hàng hay của doanh nghiệp thì không thể tự thân doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng giải quyết được mà cần sự hỗ trợ, sự tương tác, đồng hành của cơ quan quản lý nhà nước. Lĩnh vực nào thuộc Bộ thì chúng tôi sẽ chủ động giải quyết, phần nào liên bộ chúng tôi sẽ chủ động mời các bộ để cùng tham gia giải quyết. Những vấn đề vượt tầm của thể chế sẽ báo cáo với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.

Hai vấn đề VASEP vừa trình bày cũng là những vấn đề liên quan đến các ngành hàng tương tự. Nhiều khi cũng có sự xung đột nhất định giữa doanh nghiệp nội và doanh nghiệp ngoại, nhất là những doanh nghiệp liên quan tới nguyên liệu đầu vào của ngành nông nghiệp cho chế biến thủy sản, chế biến gỗ và những ngành hàng khác. Việc này thì Thủ tướng Chính phủ, Phó Thủ tướng Lê Văn Thành cũng đã có chỉ đạo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phải tìm cách tự chủ các nguyên liệu đầu vào. Chúng tôi cũng đang triển khai thông qua các hiệp hội, ngành hàng.

Thứ hai, những vấn đề về quy chuẩn xử lý nước thải. Đây là vấn đề nhiều năm, các doanh nghiệp đã kêu rất nhiều. Nhiều doanh nghiệp nói rằng tiêu chuẩn đầu ra còn khắt khe hơn tiêu chuẩn đầu vào.

Tôi theo dõi trong báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư đề nghị có tiêu chuẩn riêng. Tôi nghĩ cần phải họp về vấn đề này giữa Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Khoa học và Công nghệ để chúng ta phân tích, quyết lại vấn đề này.

Vấn đề cuối cùng, các doanh nghiệp nông nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp thủy sản, còn dư địa không gian phát triển nhưng đất để doanh nghiệp mở rộng nhà máy thì rất khó khăn. Các doanh nghiệp rất lo lắng khi quy hoạch theo vùng có thể địa phương dễ thay đổi để dành quỹ đất nuôi trồng đó cho ngành kinh doanh khác như du lịch… tạo ra sự không an tâm cho việc đầu tư.

Ven biển miền Trung là nơi dư địa phát triển theo đúng chiến lược phát triển thủy sản của Thủ tướng là giảm khai thác, tăng nuôi trồng, trong điều kiện khai thác đại dương ngày càng khó khăn. Tôi nghĩ rằng ngành thủy sản phát triển nhưng các ngành khác liên quan đến nông nghiệp cũng nằm trong bối cảnh đó. Chúng tôi sẽ báo cáo trong cuộc gặp mặt của Thủ tướng với VASEP và với các hiệp hội ngành hàng trong lĩnh vực nông nghiệp.10:46 ngày 11/08/2022

TỔNG THUẬT: Hội nghị Thủ tướng với doanh nghiệp  - Ảnh 1.
Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên: Năm nay khả năng cao Việt Nam sẽ là 1 trong 10 nước có cán cân thương mại tốt nhất thế giới – Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên: Thế giới quay cuồng đối phó với dịch bệnh, khủng hoảng dẫn đến gãy nguồn cung, lạm phát giá cả tăng cao, chính trị-xã hội bất ổn. Trong khi ở Việt Nam chúng ta dịch bệnh cơ bản được kiểm soát, chúng ta duy trì tốt các chuỗi cung ứng, giá cả cơ bản ổn định, kinh tế tiếp tục có những bước tăng trưởng, ngân sách thu cao, xuất nhập khẩu các tháng đầu năm được 450 tỷ USD. Năm nay khả năng cao sẽ là 1 trong 10 nước có cán cân thương mại tốt nhất thế giới.

Để thực hiện nhiệm vụ Chính phủ giao, thời gian tới chúng tôi cùng với các bộ, ngành tập trung vào một số giải pháp để tiếp tục tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp như sau: Hoàn thiện các cơ chế, chính sách trong lĩnh vực năng lượng, nghiên cứu sửa đổi cơ cấu biểu giá bán lẻ điện, đề xuất phương án tính giá điện đối với các cơ sở lưu trú du lịch bằng với giá điện sản xuất; Hoàn thiện trình Chính phủ phê duyệt các Chiến lược than, năng lượng…; tổ chức thực hiện tốt Chiến lược phát triển dệt may, da giày sau khi được Chính phủ phê duyệt.

Phối hợp với các bộ, ngành tạo thuận lợi hóa trong các thủ tục hành chính cho doanh nghiệp, đẩy nhanh các thủ tục hoàn thuế VAT, thủ tục thông quan xuất nhập khẩu, cấp chứng nhận CO… thông qua việc ứng dụng số hóa nhằm tiết kiệm thời gian, chi phí cho doanh nghiệp.

Bảo đảm các điều kiện sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp: Tiếp tục thực hiện các giải pháp ổn định sản xuất, bảo đảm các cân đối lớn, cung cầu các hàng hóa cơ bản, thiết yếu như: xăng dầu, phân bón, điện, than… với giá cả phù hợp hỗ trợ phát triển của doanh nghiệp. Theo dõi sát diễn biến giá xăng dầu, phối hợp với Bộ Tài chính điều hành giá phù hợp.

Hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc tìm kiếm nguồn cung nguyên vật liệu thay thế với giá cả phù hợp để đảm bảo đủ nguyên, nhiên, vật liệu phục vụ cho sản xuất. Tổ chức mạnh mẽ việc kết nối các doanh nghiệp trong nước tham gia vào chuỗi giá trị của doanh nghiệp FDI và các tập đoàn đa quốc gia.

Tập trung hỗ trợ doanh nghiệp khai thác tốt các FTA đã ký kết để tăng tốc sản xuất, xuất khẩu và đẩy mạnh tiêu thụ trong nước. Hướng dẫn các doanh nghiệp chủ động tận dụng cơ hội khi nhu cầu thế giới đang tăng đối với các sản phẩm, hàng hóa Việt Nam có thế mạnh, nhất là mặt hàng nông sản và lương thực để đẩy mạnh xuất khẩu.

Phối hợp với các địa phương và doanh nghiệp trong lĩnh vực phân phối, logistis tập trung khai thác tốt thị trường nội địa vẫn còn dư địa gia tăng, là trụ đỡ trong bối cảnh thị trường nước ngoài đang có xu hướng bị thu hẹp do nhu cầu giảm. Hỗ trợ các doanh nghiệp ứng dụng số hóa, thương mại điện tử trong xúc tiến thương mại, tìm kiếm thị trường, tiêu thụ sản phẩm.

Chú trọng công tác cung cấp thông tin, thị trường, giá cả, sự thay đổi các chính sách của các nước nhập khẩu để doanh nghiệp nắm thông tin chủ động, linh hoạt trong sản xuất, kinh doanh. Hỗ trợ đẩy mạnh số hóa hoạt động của doanh nghiệp, góp phần tiết giảm thời gian, chi phí.

Nhân đây, Bộ Công Thương cũng đề nghị Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch Điện VIII; phê duyệt cơ chế xác định giá bán điện gió, điện mặt trời đối với các dự án chuyển tiếp trên cơ sở tiến hành đàm phán giá điện, hợp đồng mua bán điện với EVN trong khung giá phát điện và hướng dẫn do Bộ Công Thương ban hành; đề nghị TTCP có quyết định bãi bỏ Quyết định 13/2020/QĐ-TTG về cơ chế khuyến khích phát triển điện mặt trời, và Quyết định số 37, 39 về cơ chế hỗ trợ phát triển các dự án điện gió; ban hành Quyết định thí điểm cơ chế mua bán điện trực tiếp giữa đơn vị phát điện từ năng lượng tái tạo với khách hàng sử dụng điện lớn để giúp cho các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp FDI đang mong muốn điều này; phê duyệt đề án nâng mức dự trữ quốc gia về xăng dầu; phê duyệt chiến lược dệt may, da giày và đặc biệt là phê duyệt Nghị định về chức năng, nhiệm vụ của Bộ Công Thương.

Đối với các địa phương, Bộ Công Thương đề nghị phối hợp với Bộ trong việc duy trì các chuỗi cung ứng để kiểm soát các loại giá. Giá xăng dầu đã được kiểm soát xuống, các loại giá khác không kiểm soát xuống theo được thì không ổn. Một mình Bộ Công Thương không làm được, đề nghị các địa phương cùng phối hợp.

Tiếp theo là việc phối hợp xuất khẩu chính ngạch do Bộ Công Thương, Bộ NN&PTNT đã trình Thủ tướng, đề nghị các bộ, ngành, địa phương có liên quan đồng lòng triển khai thực hiện.

Cuối cùng, đề nghị các địa phương giao cho các sở, ngành chức năng, đặc biệt là Sở NN&PTNT hàng tháng giao ban trực tuyến với thương vụ Việt Nam trên toàn thế giới tiếp cận thị trường, khai thác đúng thị trường.

Thủ tướng Phạm Minh Chính: Nguồn điện thì phải tính toán cho kinh tế, tải điện cũng rất tốn kém, phân phối điện thế nào cho hợp lý, sử dụng điện thế nào cho tiết kiệm. Cuối cùng, rất quan trọng là giá điện phải cạnh tranh. Nguồn năng lượng sạch như điện gió, điện mặt trời càng nhiều càng tốt nhưng giá thế nào để cho hợp lý. Giá điện nếu tăng lên thì người dân và doanh nghiệp làm sao chịu được. Phải xem xét lại quy hoạch nguồn, quy hoạch tải, quy hoạch các vùng miền thế nào để tiết kiệm; xử dụng điện thế nào cho tiết kiệm và hiệu quả.

Khi chưa làm rõ những điều này thì chưa duyệt được Quy hoạch Điện 8. Phải nghiên cứu rất kỹ, vì lợi ích quốc gia, dân tộc và người dân. Phải cân bằng giữa lợi ích Nhà nước, lợi ích của nhân dân và doanh nghiệp, đó là điều quan trọng nhất. Phải đạt được mục tiêu đó thì chúng ta mới làm, chưa đạt được thì vẫn phải kiên trì, dù không phải ở mức độ trì trệ. Dù rất sốt ruột nhưng chúng ta phải làm cho hiệu quả, nghiên cứu thật kỹ, đánh giá cho thật khách quan và đặt lợi ích của quốc gia, dân tộc lên trên hết.10:36 ngày 11/08/2022

Chủ tịch UBND TP. Đà Nẵng Lê Trung Chinh: Thực hiện chủ trương của Trung ương và Chính phủ, từ đầu năm thành phố Đà Nẵng đã đề ra nhiều giải pháp quyết liệt và có sự chia sẻ, đồng hành của cộng đồng doanh nghiệp.

Hiện nay, hầu hết doanh nghiệp của Đà Nẵng đi vào hoạt động có hiệu quả. Kinh tế Thành phố ổn định và phát triển, nhiều dự án được triển khai, nhiều doanh nghiệp được thành lập mới, các doanh nghiệp gặp khó khăn vì dịch bệnh nay đã quay trở lại hoạt động. Tăng trưởng 6 tháng đầu năm của Thành phố đạt 7,23%, thu ngân sách tính đến thời điểm này là hơn 80%. Đời sống của nhân dân, tình hình an ninh chính trị được bảo đảm.

Có được những kết quả tổng quan như vậy cho thấy trước hết chúng ta đã kiểm soát được dịch bệnh và đang tiến hành tăng tốc tiêm vaccine.

Thứ hai là có sự chỉ đạo quyết liệt và hiệu quả của Chính phủ; đã có những cơ chế, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp. Ngay từ đầu năm, thành phố Đà Nẵng đã triển khai các giải pháp phục hồi kinh tế, các doanh nghiệp đã chủ động vượt qua khó khăn, tự lực tự cường. Bên cạnh sự hỗ trợ của Trung ương, Thành phố cũng có những chính sách hỗ trợ doanh nghiệp. Quan điểm của Đà Nẵng là sự phát triển của doanh nghiệp chính là sự phát triển của Thành phố; những khó khăn của doanh nghiệp cũng chính là những khó khăn của Thành phố.

Vì vậy, Thành phố luôn luôn chia sẻ, tháo gỡ và đã thành lập 2 tổ công tác do lãnh đạo UBND Thành phố trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo để tháo gỡ khó khăn. Đồng thời, Thành phố luôn tiếp nhận những kiến nghị, đề xuất của doanh nghiệp để tháo gỡ. Mặt khác, tổ chức đối thoại giữa chính quyền với doanh nghiệp để kịp thời tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp.

Hiện nay, Thành phố đã triển khai các hỗ trợ của Trung ương, tiến hành các chính sách của Thành phố như giảm tiền thuê đất, thuê mặt bằng, giảm phí thuế… Đồng thời, Thành phố tiến hành đẩy mạnh công tác CCHC, chuẩn bị các thủ tục lựa chọn nhà đầu tư, các quỹ đất kêu gọi xúc tiến đầu tư, đào tạo nguồn nhân lực, đầu tư hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng giao thông. tạo điều kiện tốt nhất cho cộng đồng doanh nghiệp phát triển.

Thành phố sẽ tiếp tục thực hiện các chủ trương của Trung ương và những cơ chế chính sách đặc thủ của Thành phố. Đồng thời, Thành phố luôn luôn đồng hành, chia sẻ với cộng đồng doanh nghiệp để kịp thời tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ tối đa cho doanh nghiệp hoạt động sản xuất, kinh doanh thuận lợi nhất.10:31 ngày 11/08/2022

Ông Trần Sỹ Thanh – Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội: Mặc dù đất nước ta triển khai các nhiệm vụ năm 2022 trong bối cảnh có nhiều thuận lợi nhưng cũng nhiều khó khăn thách thức: Dịch bệnh COVID-19 mặc dù cơ bản đã được kiểm soát nhưng vẫn tiềm ẩn nguy cơ bùng phát trở lại; sự biến động mạnh của giá xăng dầu, khí đốt do xung đột chính trị trên thế giới; tình hình thời tiết tiếp tục có nhiều diễn biến thất thường do ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu…

Tuy nhiên, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành quyết liệt, thống nhất, kịp thời của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ, sự nỗ lực và quyết tâm cao của các bộ, ngành Trung ương và các địa phương, với nhiều chính sách, giải pháp giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát tốt lạm phát theo mục tiêu đề ra, hỗ trợ tích cực cho doanh nghiệp phục hồi và phát triển, tạo đà thuận lợi cho sự phục hồi của nền kinh tế, hoạt động sản xuất kinh doanh có nhiều khởi sắc.

Đối với thành phố Hà Nội, quán triệt các chủ trương, chỉ đạo của Trung ương, Thành phố đã thực hiện hiệu quả các giải pháp thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19 và phục hồi và phát triển KTXH; các hoạt động sản xuất, kinh doanh phục hồi nhanh; văn hóa, xã hội tiếp tục phát triển; an sinh xã hội được đảm bảo; quốc phòng, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Trong đó đặc biệt là một số kết quả đạt được trong việc hỗ trợ doanh nghiệp, chủ động thích ứng linh hoạt, phục hồi kinh tế.

Thành phố tiếp tục quan tâm và triển khai kịp thời các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp và người lao động gặp khó khăn do ảnh hưởng bởi dịch bệnh. 7 tháng đầu năm, Thành phố đã thực hiện giảm 2% thuế VAT cho gần 42.000 doanh nghiệp; gia hạn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp với tổng số tiền trên 900 tỷ đồng, hỗ trợ giảm trên 1.700 tỷ đồng lệ phí trước bạ… Trên địa bàn Thành phố, các tổ chức tín dụng đã thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ cho trên 62.000 khách hàng (với dư nợ trên 63.000 tỷ đồng); miễn, giảm, hạ lãi suất cho trên 326.000 khách hàng (với dư nợ trên 537.000 tỷ đồng); cho vay mới lãi suất ưu đãi với doanh số lũy kế từ tháng 01/2020 đến nay đạt trên 3.800.000 tỷ đồng cho gần 220.000 lượt khách hàng.

Triển khai kịp thời, hiệu quả chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động bị ảnh hưởng bởi đại dịch, Thành phố Hà Nội đã quyết định hỗ trợ cho trên 2,63 triệu người lao động, người sử dụng lao động, hộ kinh doanh gặp khó khăn do ảnh hưởng bởi dịch bệnh với tổng số tiền là trên 2.500 tỷ đồng.

Về hoạt động sản xuất kinh doanh phục hồi nhanh, tạo đà thuận lợi cho phát triển kinh tế – xã hội, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 7,2%; tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 22% (cùng kỳ tăng 2,3%). Tổng doanh thu ngành vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tảităng 23,1% (cùng kỳ tăng 7,8%). Tổng doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành tăng 38,7%. Sản xuất nông nghiệp tiếp tục phát triển.

7 tháng đầu năm, thành phố Hà Nội thu hút 828,8 triệu USD vốn FDI (trong đó có 184 dự án mới với tổng vốn đầu tư đạt 125,4 triệu USD). Thu hút vốn đầu tư ngoài ngân sách đạt trên 45.000 tỷ đồng. Thành phố thực hiện cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp cho trên 17.000 doanh nghiệp thành lập mới với số vốn đăng ký là gần 200.000 tỷ đồng (tăng 13% về số lượng doanh nghiệp so với năm trước); có gần 7.400 doanh nghiệp hoạt động trở lại (tăng 11% so với cùng kỳ); nâng tổng số doanh nghiệp trên địa bàn Thành phố là gần 340.000 doanh nghiệp.

Quán triệt và nhận thức sâu sắc ý nghĩa và tầm quan trọng của cộng đồng doanh nghiệp trong sự nghiệp xây dựng và phát triển Thủ đô, trong thời gian tới, cùng với việc tiếp tục triển khai có hiệu quả các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, hộ kinh doanh và người lao động theo chủ trương và chính sách của Trung ương, cùng với 08 nhóm giải pháp (4 trong ngắn hạn và 4 nhóm có tính chất dài hạn) trong báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, thành phố Hà Nội sẽ tiếp tục tập trung, thực hiện tốt một số nhiệm vụ trọng tâm.

Thứ nhất, triển khai quyết liệt, kịp thời kế hoạch phục hồi và phát triển kinh tế; tập trung tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, hỗ trợ hiệu quả người dân, doanh nghiệp (trong những tháng cuối năm 2022, Thành phố sẽ tiếp tục bố trí 1.000 tỷ đồng từ ngân sách để ủy thác qua Ngân hàng Chính sách, nâng tổng nguồn NSTP ủy thác là 6.600 tỷ đồng; Triển khai đồng bộ các giải pháp để doanh nghiệp, hộ kinh doanh tiếp cận nguồn vốn, thực hiện tốt Chương trình kết nối Ngân hàng – Doanh nghiệp;

Tiếp tục thực hiện Đề án hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa giai đoạn 2021-2025, Đề án hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo trên địa bàn Thành phố giai đoạn 2019-2025, chương trình hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi số giai đoạn 2021-2025. Triển khai các cơ chế, chính sách ưu đãi hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư nghiên cứu và đổi mới công nghệ. Hỗ trợ khai thác và phát triển sản phẩm trí tuệ; Hỗ trợ nghiên cứu, chuyển giao và đổi mới công nghệ cho các đề tài nghiên cứu của doanh nghiệp…

Thứ hai, tập trung đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công, góp phần để khơi thông nguồn lực cho sản xuất kinh doanh với những giải pháp đồng bộ, quyết liệt, trong đó đặc biệt quan tâm đẩy nhanh tiến độ triển khai các công trình, dự án tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội và giải quyết những vấn đề dân sinh bức xúc.

Thứ ba, chỉ đạo các sở, ngành có liên quan đẩy nhanh tiến độ thực hiện Quy hoạch Thủ đô và điều chỉnh Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô; tranh thủ ý kiến các bộ, ngành Trung ương để thiết lập kênh liên lạc trực tuyến để tháo gỡ kíp thời những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện.

Thứ tư, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh. UBND thành phố Hà Nội sẽ trình HĐND Thành phố ban hành Nghị quyết về Đẩy mạnh phân cấp, ủy quyền trên địa bàn thành phố Hà Nội vào kỳ họp tháng 9/2022.

Thứ năm, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, triển khai đồng bộ hệ thống báo cáo điện tử và hệ thống văn phòng điện tử dùng chung trên địa bàn Thành phố; tiếp tục thực hiện lộ trình chuyển đổi số, xây dựng chính quyền điện tử, từng bước hình thành chính quyền số, phát triển đô thị thông minh.

Thứ sáu, Tiếp tục thực hiện có hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến, quán triệt các chủ trương, chính sách pháp luật đến người dân và cộng đồng doanh nghiệp, tạo sự đồng thuận cao trong xã hội với phương châm 5 bước “biết, hiểu, đồng thuận, tự nguyện và lan tỏa”.10:08 ngày 11/08/2022

TỔNG THUẬT: Hội nghị Thủ tướng với doanh nghiệp  - Ảnh 1.
Chủ tịch VCCI Phạm Tấn Công kiến nghị nên có trung tâm thông tin hỗ trợ khai thác các FTA để hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận, khai thác các cơ hội – Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Ông Phạm Tấn Công, Chủ tịch VCCI: Cách đây 1 năm, Thủ tướng có hai cuộc gặp liên tiếp với doanh nghiệp Hàn Quốc, một cuộc ngày 8/8 Thủ tướng giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, một cuộc ngày 26/9, giao Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam chủ trì. Tại các cuộc gặp này, khẩu quyết đưa ra là: Vaccine, thích ứng an toàn, linh hoạt và coi doanh nghiệp là chủ thể trong dịch COVID-19. Chính phủ đã thực hiện rất thành công khẩu quyết này, chúng ta đã vượt qua đại dịch, doanh nghiệp đã hồi sinh, nền kinh tế cũng đã có phục hồi. Sau dịch lại diễn ra xung đột Nga-Ukraine, bất ổn toàn cầu, nguy cơ lạm phát, suy thoái kinh tế các nền kinh tế lớn. Vừa rồi, chúng ta lại có khẩu quyết mới: “Ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, duy trì phục hồi, phát triển kinh tế”. Chính phủ cũng rất thành công trong thực hiện khẩu quyết này.

Cuối tháng 7 vừa qua, VCCI đã đăng cai tổ chức Hội nghị Hội đồng tư vấn doanh nghiệp APEC, trong đó có rất nhiều lãnh đạo tập đoàn kinh tế hàng đầu thế giới và khu vực. Các lãnh đạo này đều rất ngỡ ngàng, khâm phục Việt Nam về tình hình an toàn và phục hồi kinh tế. Các chỉ số Bộ Kế hoạch và Đầu tư đưa ra về phát triển kinh tế cũng minh chứng cho thành công của Việt Nam chúng ta.

Với chủ đề ngày hôm nay về chủ động thích ứng, phục hồi nhanh và phát triển bền vững, chúng tôi hoàn toàn đồng ý với các ý kiến phát biểu của các doanh nghiệp, đặc biệt các kiến nghị.

VCCI xin được kiến nghị Chính phủ quan tâm xử lý một số nguy cơ, nút thắt cho doanh nghiệp trong thời gian tới sau đây:

Thứ nhất về tài chính, nguồn vốn cho sản xuất kinh doanh và doanh nghiệp. Sức ép tài chính cho các doanh nghiệp rất lớn, tái cấu trúc và phục hồi sau dịch nhiều doanh nghiệp trước đó đã nêu. Do đó, với sức ép như thế này, nguồn vốn, tài chính là mạch máu cho doanh nghiệp, đề nghị Chính phủ đẩy mạnh chương trình hỗ trợ phục hồi đã được Quốc hội thông qua và Chính phủ cũng đã ban hành nghị quyết, đặc biệt cần khai thông hỗ trợ lãi suất tín dụng 2% theo Nghị định 31. Tất nhiên việc khai thông nay cần cân đối cả việc nới room tín dụng, đây là vấn đề rất khó, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đang phải xử lý. Chúng tôi cho rằng việc bảo đảm nguồn vốn cho doanh nghiệp từ nay đến cuối năm cũng như giai đoạn sau này rất quan trọng.

Thứ hai, về nhân lực, các ngành đang phục hồi mạnh như du lịch, dịch vụ đang rất khó vì thiếu hụt nhân lực. Làn sóng dịch chuyển FDI toàn cầu sau COVID-19 cũng đòi hỏi Việt Nam chúng ta có nguồn nhân lực để nắm bắt làn sóng này. Nhân lực cần có giải pháp lớn của Chính phủ, trong đó rất cần sự than gia của doanh nghiệp để bảo đảm thực hiện mô hình kết nối Nhà nước – Nhà trường – Doanh nghiệp trong đào tạo, cung ứng nguồn nhân lực.

Thứ ba, cần tích cực cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia với trọng tâm là cải cách thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh, cắt giảm chi phí cho doanh nghiệp gồm các chi phí về thời gian, chi phí về nhân lực và chi phí tiền bạc. Qua gặp gỡ các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nước ngoài, họ đều quan tâm đến vốn, môi trường kinh doanh khi quyết định đầu tư. Do đó đề nghị tiếp tục tập trung cải cách thủ tục hành chính, trong đó tập trung vào một số lĩnh vực mà doanh nghiệp vẫn còn gặp nhiều phiền hà như đất đai, xây dựng, giao thông, môi trường…

Ngoài ba vấn đề nêu trên, cũng xin nhắc đến một số cơ hội. Hiện nay cơ hội trong 15 FTA rất lớn, nhưng qua khảo sát của VCCI thì thấy hầu hết chỉ có các doanh nghiệp FDI nắm bắt được và khai thác tốt cơ hội còn doanh nghiệp Việt Nam thì rất hạn chế. Kiến nghị chúng ta nên có trung tâm thông tin hỗ trợ khai thác các FTA đặt tại Bộ Công Thương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư hoặc cũng có thể giao cho VCCI nếu Thủ tướng đồng ý, để hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận, khai thác các cơ hội này. Đồng thời, đề nghị tăng cường công tác dự báo kinh tế chiến lược do quá trình phục hồi và phát triển còn dài, thế giới còn nhiều biến động có tác động trực tiếp đến doanh nghiệp chúng ta như xung đột ở Ukraine. Chính sách “zero COVID” của Trung Quốc vào cuối năm nay có thay đổi, lúc đấy sẽ đảo lộn thị trường nguyên liệu. Rồi chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp tối thiểu thống nhất toàn cầu 5% sẽ ảnh hưởng lớn đến Việt Nam.

Cuối cùng xin cảm ơn Thủ tướng đã tổ chức Hội nghị hôm nay trước khi ban hành Nghị quyết để hỗ trợ doanh nghiệp chủ động thích ứng, phục hồi nhanh và phát triển bền vững. Nghị quyết này liên quan đến gần 1 triệu doanh nghiệp và Thủ tướng đã nêu gương rất lớn về cải cách khi lắng nghe các đối tượng chính sách trước khi ban hành chính sách mới.

Xin mạnh dạn đề nghị Thủ tướng cho doanh nghiệp thêm thời gian nghiên cứu, góp ý cho Nghị quyết quan trọng này để Nghị quyết đi vào cuộc sống, giống như Nghị quyết 128.10:00 ngày 11/08/2022

TỔNG THUẬT: Hội nghị Thủ tướng với doanh nghiệp  - Ảnh 1.
Ông Tô Hoài Nam, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa – Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Ông Tô Hoài Nam, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa, đưa ra 3 khuyến nghị chung. Thứ nhất, Chính phủ cần xác định mục tiêu ưu tiên hàng đầu cho ổn định kinh tế vĩ mô và việc làm; khuyến khích mọi hình thức tạo việc làm là bài toán an sinh xã hội cho hàng chục triệu lao động và gia đình. Đây là vấn đề vô cùng hệ trọng, không thể xem nhẹ, do dự hay chậm trễ.

Thứ hai, tiếp tục đẩy mạnh hoàn thiện thể chế kinh doanh, trong đó tăng cường tư pháp và thực thi pháp luật được coi là biện pháp trung tâm của cải cách môi trườn pháp lý kinh doanh. Bởi lẽ, kinh doanh và kinh tế thị trường đòi hỏi sự chắc chắc của pháp luật. Sự chắc chắn của pháp luật hiểu theo nghĩ của doanh nghiệp là chỉ cần làm đúng quy định pháp luật khi thực hiện một dự án hay đăng ký sản phẩm…

Thứ ba, các gói kích thích kinh tế để ngăn chặn suy giảm là rất cần thiết, nhưng không nhất thiết phải “một mũi tên trúng nhiều mục tiêu”. Có thể trong một số gói phải thiết kế cẩn trọng hơn với phương châm “một mũi tên chỉ cần trúng một mục tiêu” sẽ an toàn hơn.

Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa cho rằng có những yếu tố trước đây có lợi giờ lại bất lợi, ví dụ mối tương quan giữa thị trường Việt Nam với Trung Quốc, giữa thị trường 100 triệu dân và 1,4 tỷ dân.

Ông Tô Hoài Nam đưa ra 7 kiến nghị như sau:

Thứ nhất, thực hiện việc cấp bù lãi suất để thúc đẩy các ngân hàng mở rộng quy mô vốn vay cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, đặc biệt chú trọng các khoản vay tín dụng xuất khẩu, nông nghiệp nông thôn, đổi mới sáng tạo, công nghiệp phụ trợ, chế biến chế tạo, chuỗi liên kết…

Thứ hai, kéo dài chính sách hỗ trợ về tài chính, thuế đến hết năm 2023. Đồng thời với việc cải cách trình tự, thủ tục thuế, chế độ kế toán cho doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ theo hướng đơn giản, tạo thuận lợi, qua đó hỗ trợ kịp thời doanh nghiệp trước áp lực về giá, chi phí sản xuất, sinh hoạt tăng cao.

Thứ ba, nhanh chóng ban hành chính sách hỗ trợ mua bán trực tuyến dành riêng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa và 5,2 triệu hộ kinh doanh nhằm hỗ trợ đối tượng này thích ứng với sự thay đổi mạnh mẽ, nhanh chóng từ giao dịch mua, bán hàng hoá trực tiếp sang online, giúp họ tồn tại và phát triển. Đây được cân nhắc như một giải pháp đặc biệt, bởi phần lớn doanh nghiệp siêu nhỏ và tiểu thương được xác định là công cụ thoát nghèo gắn chặt với vấn đề an sinh xã hội.

Thứ tư, thực hiện hỗ trợ qua hình thức mua sắm công đối với gói thầu xây dựng dưới 5 tỷ đồng và mua sắm hàng hoá dịch vụ dưới 3 tỷ đồng sử dụng ngân sách phải dành cho các nhà thầu là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ. Đối với những gói thầu đòi hỏi năng lực khoa học công nghệ quá cao hoặc giá gói thầu xây dựng trên 5 tỷ đồng và mua sắm hàng hoá dịch vụ trên 3 tỷ đồng, thì ưu tiên các nhà thầu có sử dụng nhà thầu phụ là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ.

Thứ năm, triển khai nhanh chương trình hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp đổi mới sáng tạo theo quy định. Nếu được hỗ trợ đầy đủ, khu vực này sẽ khởi nguồn cho đổi mới sáng tạo trong kinh doanh, cũng chính là phương án khả thi nhất cho Việt Nam có thể đưa ra các kết quả nghiên cứu khoa học công nghệ từ các viện, trường vào thực tế.

Thứ sáu, tạo cơ chế thuận lợi để khuyến khích các nhà đầu tư tư nhân trong nước mạnh dạn đầu tư thành lập các khu, cụm vườn ươm tạo doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ để cung cấp các dịch vụ hỗ trợ kỹ thuật cho doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Thứ bảy, tiếp tục đẩy mạnh việc triển khai thực hiện Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa trên hai phương diện ban hành chính sách pháp luật và thực thi.09:47 ngày 11/08/2022

TỔNG THUẬT: Hội nghị Thủ tướng với doanh nghiệp  - Ảnh 1.
Ông Lê Hoàng Châu, Chủ tịch Hiệp hội Bất động sản TPHCM – Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Ông Lê Hoàng Châu, Chủ tịch Hiệp hội Bất động sản TPHCM: Thời gian qua, doanh nghiệp BĐS rất lo lắng nhưng Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã có những thông điệp rất kịp thời, như: Không hình sự hóa các quan hệ dân sự kinh tế. Thủ tướng đã truyền cảm hứng cho các doanh nghiệp với thông điệp: Lợi ích hài hòa, rủi ro chia sẻ, để bảo đảm hài hòa lợi ích của người dân và doanh nghiệp, không hy sinh tiến bộ công bằng, xã hội để chạy theo lợi ích. Đó là liều thuốc tinh thần đối với doanh nghiệp, trong đó có cộng đồng doanh nghiệp bất động sản. Đối với thị trường bất động sản, cuối năm 2021 và 6 tháng đầu năm 2022 đã thích ứng và từng bước phục hồi trở lại nhưng cũng chỉ bằng 44% so với năm 2017 là năm đỉnh cao.

Thị trường BĐS có một số dấu hiện đáng lo ngại, đó là tình trạng lệch pha cung cầu, rất thiếu nguồn cung nhà ở, nhất là nhà ở bình dân, nhà ở xã hội, nhà dành cho công nhân, người lao động. Nguồn nhà ở liên tục giảm từ năm 2018 đến nay. Năm 2020 chỉ bằng 39,2%, năm 2021 chỉ bằng 33,6% so với năm 2017.

Đối với TPHCM, 6 tháng đầu năm 2022, tất cả các lĩnh vực đều tăng trưởng, chỉ riêng lĩnh vực BĐS là tăng trưởng âm, giảm 5,62% so với cùng kỳ năm 2021.

Thị trường BĐS có dấu hiện lệch pha trong phân khúc thị trường, lệch pha phân khúc nhà ở cao cấp nhưng rất thiếu nhà ở bình dân, nhà ở đáp ứng nhu cầu thực. Đơn cử nhà ở bình dân, năm 2020 chỉ chiếm 1%, năm 2021 và 6 tháng đầu năm 2020 là 0%. Ngược lại nhà cao cấp năm 2021 chiếm 74% và 6 tháng đầu năm là 80,1%. Như vậy rất mất cân đối. Nhà ở xã hội chỉ đáp ứng 41% theo kế hoạch. Công nhân lao động thuê nhà trọ, tiền thuê chiếm khoảng 20% thu nhập, hơn 60% công nhân chỉ có thu nhập vừa đủ sống. Công nhân lao động có thu nhập rất thấp chiếm 56,8%. Đây là điều đáng quan ngại, việc tiếp cận được nhà ở của công nhân là vấn đề rất lớn.

Tình trạng lệch pha về cung cầu và lệch pha về cung ứng thị trường dẫn đến giá nhà tăng liên tục trong 5 năm vừa qua, tính từ năm 2017. Hoạt động chuyển nhượng ách tắc, thị trường bất động sản hiện nay có dấu hiệu phát triển chậm lại, trầm lắng, doanh nghiệp có dấu hiệu hụt hơi, giảm thanh khoản, khó tiếp cận nguồn vốn tín dụng, nguồn vốn trái phiếu. Riêng quý I/2022 và tháng 7/2022, doanh nghiệp BĐS không phát hành được trái phiếu nào.

Nguồn vốn đầu tư nước ngoài giảm 8,9% so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên trong giảm chung, BĐS thu được nguồn FDI tăng lên. Nguồn kiều hối sụt giảm, như TPHCM chỉ đạt được 3,1 tỷ USD giảm 13%. Như vậy sẽ tương ứng với giảm đầu tư vào BĐS, vì trung bình có khoảng 20% kiều hối đầu tư vào BĐS.

Hiệp hội BĐS xin kiến nghị một số giải pháp:

– Thực hiện phổ biến phương thức đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu dự án có sử dụng đất công khai, minh bạch. Như mới cách đây 2 ngày, TPHCM tuyên bố đấu giá trở lại quyền sử dụng đất đối với 4 lô đất tại Thủ Thiêm. Tin này là tin tốt đối với thị trường BĐS.

– Đề nghị Chính phủ xem xét chấp thuận ý kiến của UBND TPHCM về việc áp dụng phương pháp sớm điều chỉnh biến động giá đất để tính tiền sử dụng đất đối với tất cả các dự án nhà ở thương mại, kể cả những dự án trên 30 tỷ đồng theo bảng giá đất. Luật Đất đai dự kiến sửa đổi phù hợp với giá thị trường. Nếu áp dụng được điều này thì sẽ minh bạch, rút được thời gian làm thủ tục từ 3 đến 5 năm xuống còn 15 ngày. Cán bộ công chức sẽ không bị rủi ro về pháp lý.

– Đề nghị thực hiện cơ chế hoán đổi các diện tích đất công nằm xen kẽ trong dự án nhà ở thương mại.

– Đề nghị Ngân hàng Nhà nước thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng về việc không siết chặt tín dụng một cách bất hợp lý nhưng bảo đảm tăng cường giám sát, không buông lỏng thị trường nhà đất, làm thế nào để tiếp cận được tín dụng một cách thuận lợi hơn.

– Đề nghị Bộ Tài chính sửa đổi Nghị định 153/2020/NĐ-CP để chấn chỉnh lại hoạt động phát hành trái phiếu để thị trường minh bạch, an toàn.

– Đề nghị sửa đổi Khoản 1, Điều 23, Luật Nhà ở để bổ sung thêm trường hợp nhà đầu tư có quyền sử dụng đất khác không phải là đất ở phù hợp với quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch sử dụng đô thị nhà ở.09:37 ngày 11/08/2022

TỔNG THUẬT: Hội nghị Thủ tướng với doanh nghiệp  - Ảnh 1.
Ông Nguyễn Quốc Hiệp, Chủ tịch Hiệp hội Nhà thầu xây dựng Việt Nam – Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Ông Nguyễn Quốc Hiệp, Chủ tịch Hiệp hội Nhà thầu xây dựng Việt NamCó thể nói trong 20 năm qua, các doanh nghiệp xây dựng Việt Nam đã nỗ lực vượt bậc trong việc tiếp cận công nghệ mới cả về kỹ thuật thi công và tổ chức quản lý. Vì vậy, chúng tôi tự tin báo cáo Thủ tướng là các doanh nghiệp xây dựng chúng ta từ chỗ lạc hậu yếu kém trong khu vực hiện đã nằm trong top đầu ASEAN. Chúng ta tự tổ chức thi công được những công trình cao 81 tầng, công trình cầu dây văng khẩu độ lớn hoặc các công trình ngầm với tốc độ thi công nhanh và kỹ thuật hoàn thiện, góp phần tích cực làm thay đổi bộ mặt đất nước và đóng góp xứng đáng vào sự phát triển kinh tế chung với tỉ lệ khoảng 12% GDP hằng năm.

Sau các đợt dịch COVID-19 bùng phát, các doanh nghiệp xây dựng Việt Nam hưởng ứng tích cực chỉ đạo của Đảng và Chính phủ trong việc tham gia vào chương trình phục hồi kinh tế xã hội nên bước vào năm 2022, hầu hết các doanh nghiệp xây dựng đều đẩy nhanh tốc độ sản xuất kinh doanh. Có những doanh nghiệp tăng trưởng gần 300% so với cùng kỳ 2021. Tuy nhiên, với tình hình bão giá vật liệu xây dựng tăng cao đến 18-40% suốt từ 2021 đến nay, cộng với những khó khăn về nguồn nhân lực  do hậu quả của COVID-19 và công việc về xây dựng cũng trở nên hạn hẹp, khó khăn do những vướng mắc về thủ tục pháp lý trong việc đầu tư nên tình hình chung các doanh nghiệp xây dựng từ nay đến cuối năm vẫn còn rất nhiều khó khăn. Phần lớn doanh nghiệp trong ngành xây dựng dự kiến chỉ đạt 80-90% kế hoạch đặt ra về doanh thu và sản lượng. Nhưng điều đáng lo ngại là dòng tiền và hiệu quả kinh doanh sụt giảm mạnh vì chi phí lớn. Cụ thể, chúng tôi xin phép báo cáo Thủ tướng một số vấn đề vướng mắc chính như sau:

Vấn đề nợ đọng xây dựng: Các doanh nghiệp xây dựng Việt Nam phần lớn (khoảng 90%) là doanh nghiệp vừa và nhỏ quy mô vốn dao động dưới 100 tỷ đồng. Các doanh nghiệp lớn trong ngành cũng chỉ phổ biến quy mô vốn từ 500-1.000 tỷ. Chưa đến 10 doanh nghiệp có vốn trên 1.000 tỷ. Trong khi đó nợ đọng không thanh toán được khá phổ biến ở tất cả các doanh nghiệp, các tổng công ty, tập đoàn xây dựng hầu hết đều có nợ đọng từ vài trăm đến vài nghìn tỷ trong khi vốn eo hẹp phải vay ngân hàng để trang trải thi công với lãi suất thông thường khoảng 9-10%/năm nên có những tập đoàn một quý năm 2022 đạt doanh thu đến 3.000 tỷ nhưng hiệu quả chỉ đạt xấp xỉ 10 tỷ. Chính vì những khoản nợ đọng này nên các doanh nghiệp xây dựng, đặc biệt các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đứng trước nguy cơ phá sản nếu không thu hồi được nợ.

Về các loại nợ đọng, Hiệp hội xin phân loại gồm:

– Nợ công trình vốn đầu tư công: Các khoản nợ này chủ yếu từ các công trình đã kết thúc 2-3 năm trước nhưng chưa quyết toán và thanh toán được do có phát sinh hoặc do hồ sơ thanh toán chưa được cấp có thẩm quyền phê duyệt nên vẫn còn tồn đọng.

– Nợ vốn đầu tư ngoài ngân sách: Do một số chủ đầu tư chây ì cố tình không thanh quyết toán đặc biệt ở 25% cuối của dự án mặc dù đã đưa vào khai thác sử dụng.

Hiệp hội xin có một số đề xuất:

Thứ nhất, đối với vốn đầu tư công,đề nghị Thủ tướng giao Bộ KH&ĐT và Bộ Tài chính rà soát lại các chủ đầu tư vốn ngân sách để thống kê chính xác số lượng nợ tồn xây dựng trong các năm trước, báo cáo Thủ tướng phương án cắt hết các nợ dồn toa để giải quyết dứt điểm cho các nhà thầu.

Thứ hai, đối với vốn đầu tư ngoài ngân sách, đề nghị Thủ tướng giao Bộ KH&ĐT và Bộ Xây dựng nghiên cứu chế tài yêu cầu chủ đầu tư phải có bảo lãnh thanh toán của ngân hàng cho 20% vốn thanh toán cuối dự án, khi dự án kết thúc để đảm bảo sự bình đẳng cho các nhà thầu với chủ đầu tư. Trước mắt, có chế tài cụ thể để cơ quan chức năng giải quyết cho các khoản nợ đọng kể cả biện pháp công bố tình trạng chây ì thanh toán của một số chủ đầu tư.

Vấn đề đơn giá – định mức: Hiện các công trình xây dựng của chúng ta, đặc biệt các công trình vốn đầu tư công, đều sử dụng hệ thống đơn giá định mức do Bộ Xây dựng ban hành làm căn cứ cho cả khâu lập tổng mức đầu tư và thanh toán cho các dự án ở tất cả các loại hình công việc. Tuy nhiên, do trình độ công nghệ của chúng ta phát triển rất nhanh nên một số công việc chúng ta không có định mức, một số công việc định  mức đã trở nên lạc hậu không cập nhật kịp thời với giá thực tế nên dẫn tới những khó khăn cho các nhà thầu, đặc biệt với khu vực đầu tư công. Hiện nay có tình trạng một số doanh nghiệp xây dựng không muốn đảm nhận các dự án đầu tư công.

Hiệp hội xin đề xuất:

– Đề nghị Thủ tướng giao Bộ Xây dựng cùng với các hiệp hội doanh nghiệp nghiên cứu bổ sung, thay đổi hệ thống định mức đơn giá theo lộ trình: trước mắt, bổ sung các định mức chưa có và điều chỉnh từng bước cậpp nhật với công nghệ xây dựng mới đồng thời chuyển hướng dần theo hướng xây dựng đơn giá tổng hợp để lập tổng mức đầu tư cho các dự án, bỏ dần hệ thống định mức chi tiết.

– Có chế tài với các địa phương trong việc công bố các chỉ số giá vật liệu không cập nhật với giá thị trường.

Vấn đề Hợp đồng xây dựng và sự bình đẳng của các chủ thể: Hiện nội dung Hợp đồng xây dựng giữa chủ đầu tư và các nhà thầu được hướng dẫn theo các nghị định dẫn chiếu từ luật đấu thầu và luật xây dựng. Tuy nhiên, ở cả hai mẫu hợp đồng đều không có sự bình đẳng giữa chủ đầu tư và nhà thầu (đặc biệt trong khâu thanh toán). Các nhà thầu phải có tới 04 loại bảo lãnh ngân hàng khi tham gia một dự án nhưng ở phía chủ đầu tư thì không có bất kỳ bảo lãnh não; vì vậy phần lớn mọi rắc rối thường hay xả ra ở khoản 20% thanh toán cuối đời dự án.

Một số dự án áp dụng dạng hợp đồng trọn gói hoặc hình thức đơn giá cố định trong bối cảnh vật liệu xây dựng tăng cao từ 20-35% mà hợp đồng thì kéo dài 3-4 năm khiến cho các các doanh nghiệp xây dựng đều tiến thoái lưỡng nan.

Hiệp hội xin đề xuất Thủ tướng giao cho Bộ Xây dựng và Bộ KH&ĐT nghiên cứu xem xét mô hình hợp đồng cho từng loại hình đầu tư trong đó ở loại hình đầu tư ngoài ngân sách cần có cơ chế bảo lãnh thanh toán của chủ đầu tư ở 20% cuối cùng, đồng thời xem xét điều chỉnh các loại hình hợp đồng phù hợp với thông lệ quốc tế (FIDIC) cụ thể dạng hợp đồng trọn gói chỉ được áp dụng khi các yếu tố đầu vào được xác định rõ ràng cộng với tiến độ chỉ thực hiện trong vòng 24 tháng.

Về cơ chế thanh quyết toán cần có chế tài bình đẳng giữa các chủ thể Hợp đồng, đặc biệt cần quy định rõ cơ chế xứ lý các khối lượng phát sinh trong Hợp đồng (đặc biệt đối với đầu tư công về quyền hạn phê duyệt của chủ đầu tư để được thanh toán); Đối với các khoản chậm trả do lỗi của chủ đầu tư cần có chế tài phạt theo lãi suất ngân hàng thương mại áp dụng.

Vấn đề nguồn vốn tín dụng và lãi xuất: Các doanh nghiệp xây dựng đại đa số là các doanh nghiệp vừa và nhỏ quy mô vốn hạn hẹp, khi thực hiện các Hợp đồng xây dựng phần lớn chỉ được tạm ứng 10-15% giá trị hợp đồng nên khi triển khai thực hiện phải sử dụng vốn tín dụng ngân hàng để mua vật tư, huy động xe máy, nhân công. Thực chất công trường xây dựng cũng phải lo sản xuất, lo đời sống, công ăn việc làm cho người lao động không khác gì một nhà máy nhưng tín dụng cho các doanh nghiệp xây dựng lại hoàn toàn chưa được ưu tiên như cho sản xuất, đặc biệt trong bối cảnh hiện nay nhiều ngân hàng bị xiết Room tín dụng nên tín dụng cho doanh nghiệp xây dựng cũng bị hạn chế và mặt bằng lãi suất còn cao.

Hiệp hội xin đề xuất Thủ tướng giao Ngân hàng Nhà nước có hướng dẫn bổ sung những ưu tiên hợp lý cho tín dụng xây dựng, đặc biệt là các dự án trọng điểm theo quan điểm hỗ trợ cho sản xuất.

Chúng tôi cũng tin tưởng chắc chắn nếu các vướng mắc này sớm được tháo gỡ, các dự án đầu tư công, đặc biệt các dự án hạ tầng kỹ thuật trọng điểm, sẽ được đẩy nhanh góp phần tích cực vào việc phục hồi phát triển kinh tế toàn xã hội.09:27 ngày 11/08/2022

TỔNG THUẬT: Hội nghị Thủ tướng với doanh nghiệp  - Ảnh 1.
Ông Nguyễn Hoài Nam, Phó Tổng Thư ký Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam – Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Ông Nguyễn Hoài Nam, Phó Tổng Thư ký Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam: Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam hiện nay có 279 doanh nghiệp thành viên và đang chiếm khoảng 80-83% kim ngạch xuất khẩu thủy sản trong tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản Việt Nam. Trong 2 năm qua, thủy sản Việt Nam duy trì được năng lực cạnh tranh, nằm trong top 3 sau Trung Quốc và Na Uy về xuất khẩu thủy sản trên thế giới.

Để giữ được nguồn cung an toàn và bền vững chúng tôi có 5 đề xuất.

Trong 7 tháng đầu năm nay, xin báo cáo một con số kỷ lục của ngành thủy sản Việt Nam: Mức hồi phục nhanh ghi nhận lần đầu tiên trong 20 năm qua là xuất khẩu được 6,7 tỷ USD, tăng 35%. Trong đó có những mặt hàng đặc biệt như mặt cá tra – mặt hàng chủ lực của Việt Nam đang chi phối 95% nguồn cá thịt trắng toàn cầu, tăng 80% trong 7 tháng vừa qua. Con số này khích lệ rất nhiều đối với ngành hàng.

Năm nay, chúng tôi có tính toán để khẳng định, lần đầu tiên chúng ta vượt mốc xuất khẩu trên 10 tỷ USD đối với thủy sản Việt Nam và sẽ tăng khoảng 12-15% so với năm 2021. Trong đó sản phẩm nuôi trồng thủy sản là cá tra và tôm sẽ chiếm khoảng 65%, các sản phẩm khai thác biển khoảng 35%.

Có một con số khẳng định được nội lực của ngành để đồng hành với Chính phủ trong thời gian qua, đặc biệt là giai đoạn chống dịch căng thẳng vừa qua khi đứt gãy chuỗi cung ứng quốc tế. Đó là, nếu như trong cơ cấu về xuất khẩu của Việt Nam hiện nay thì doanh nghiệp FDI liên quan có tỉ lệ kim ngạch xuất khẩu chiếm trung bình khoảng 70-84%, các doanh nghiệp trong nước tham gia vào khoảng 26-30%. Trong ngành thủy sản, hiện nay con số này lại ngược lại, các doanh nghiệp Việt Nam đang chiếm 95%, chỉ 5% có sự tham gia của doanh nghiệp FDI trong lĩnh vực thủy sản, lĩnh vực liên quan đến nông dân và ngư dân Việt Nam.

Bối cảnh hiện nay và 7 tháng đầu năm chúng ta đang chịu tác động, hệ lụy của dịch, các chuỗi cung ứng quốc tế đứt gãy trong giai đoạn trước đến nay chưa khôi phục hoàn toàn. Đặc biệt, lạm phát tăng cao làm giảm sức mua tại các thị trường đang tiêu dùng thủy sản của chúng ta. Bên cạnh đó là tăng giá hàng hóa đối với lĩnh vực thủy sản, đặc biệt là tăng giá thức ăn chăn nuôi thủy sản. Kết quả kinh doanh 7 tháng chúng ta đạt 6,7 tỷ USD.

Cần coi trọng sự ổn định về kinh tế vĩ mô, bởi các chỉ đạo điều hành của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ thời gian qua cũng như trong thời điểm chống dịch gay go nhất đã thể hiện sự thống nhất, giúp chúng tôi thấy được tác động của sự ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ được doanh nghiệp, cho phục hồi sản xuất kinh doanh bắt đầu từ ngày 8/8 năm ngoái. Sau đó chúng ta có Nghị quyết 175 vào ngày 9/9.

Chuỗi khai thác biển của ngư dân, sau đó chế biến xuất khẩu đã phục hồi nhanh chóng, nắm bắt được cơ hội của thị trường. Dư địa của thị trường đối với thủy sản còn nhiều, cơ hội của chúng ta còn không ít, nhưng để giành được điều đó trong bối cảnh phải phát triển bền vững và phải cạnh tranh với không ít quốc gia thì có một số thách thức đang tác động tiêu cực đến phát triển bền vững của ngành hàng.

Trước hết đó là vấn đề chi phí sản xuất tăng cao đáng lo ngại khiến cho giá thành sản phẩm tăng và nguy cơ sẽ giảm khả năng cạnh tranh. Đầu tiên là vấn đề thức ăn chăn nuôi, trung bình hiện nay, đặc biệt sau dịch, đã tăng khoảng 20%. Giá thành thức ăn chăn nuôi của sản phẩm cá tra, tôm đang chiếm 65-70%, tác động chi phối rất lớn.

Thứ hai, chi phí vận tải biển và nhân công tăng trong 2 năm qua với các lý do liên quan đến dịch, liên quan đến ách tắc và bây giờ liên quan đến giá nhiên liệu tăng, nên hiện nay vẫn đang giữ ở mức cao. Bờ Tây Mỹ hiện nay đang ở mức 400 triệu đồng cho một container, đến châu Âu cũng tăng đến 4 lần từ 10.000-12.000 USD. Điều này chi phối rất nhiều, đặc biệt với ngành đông lạnh của chúng ta. Các chi phí đầu vào khác như bao bì, hóa chất, vận chuyển, hội nhập… đều tăng.

Chúng tôi kiến nghị Thủ tướng, các bộ ngành quan tâm có biện pháp hỗ trợ, chỉ đạo tháo gỡ giảm chi phí cho cộng đồng doanh nghiệp, trong đó có thủy sản, đặc biệt giá thức ăn chăn nuôi.

Tín dụng đang siết lại từ đầu tháng 8 vừa qua, trong khi lạm phát tăng cao khiến người dân các nước giảm tiêu dùng, nhiều nhà nhập khẩu cho biết không nhận đơn hàng từ nay đến tháng 10. Nghĩa là chúng ta sẽ tồn kho, chúng ta sẽ không có tiền để trả ngay cho ngân hàng, mà không trả khoản vay cũ thì các ngân hàng (trong 1 tuần  qua) đều báo sẽ không cho vay khoản vay mới, dẫn đến không thu mua được cá, tôm của nông dân. Mong rằng Thủ tướng Chính phủ cũng như Thống đốc Ngân hàng Nhà nước có chỉ đạo giúp cho các vấn đề đang diễn ra trong 1 tuần qua.

Vấn đề nữa là thách thức trong chi phí tuân thủ xử lý môi trường, một trong ba trụ cột để phát triển bền vững. Hiện ngành chúng tôi có hai khâu quan trọng nhất là chăn nuôi và chế biến đều bị ách tắc bởi các vi phạm về môi trường. Xu hướng của chúng ta là phát triển bền vững, bị vướng quy chuẩn môi trường liên quan đến nước thải đầu ra không nằm trong quy chuẩn chăn nuôi mà nằm trong quy chuẩn khác, rất nhiều chỉ tiêu không phù hợp với nuôi tôm, cá, như quy chuẩn xử lý phốt pho hữu cơ trong chế biến thủy sản đông lạnh. Rất mong Bộ Tài nguyên và Môi trường xem xét có quy chuẩn riêng.09:18 ngày 11/08/2022

TỔNG THUẬT: Hội nghị Thủ tướng với doanh nghiệp  - Ảnh 1.
Ông Phạm Việt Dũng, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Hàng không Việt Nam – Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Ông Phạm Việt Dũng, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Hàng không Việt Nam: Thị trường hàng không Việt Nam trên đà phục hồi nhưng chưa đồng đều ở các phân khúc. Thị trường nội địa đã phục hồi hoàn toàn so với trước khi dịch bệnh bùng phát, thị trường quốc tế phục hồi rất chậm. Vận chuyển hành khách trong nước tăng 12% so với năm 2019. Vận chuyển hàng hoá quốc tế tăng nhưng nội địa giảm.

Tuy nhiên, doanh thu lại không tương ứng, do giá nhiên liệu và một số giá đầu vào tăng lên, các hãng hàng không vẫn bị lỗ và tính thanh khoản không được cải thiện nhiều.

Sự phục hồi không đồng đều ở các doanh nghiệp trong ngành hàng không, trong các chuỗi cung ứng ngành hàng không, trong khi các doanh nghiệp kinh doanh trong vận chuyển hạ tầng có sự phục hồi mạnh mẽ nhưng các hãng hàng không, các doanh nghiệp cung ứng vận chuyển hành khách vẫn gặp khó khăn, phải giải quyết những vấn đề bất lợi của dịch bệnh để lại, đặc biệt là sự mất cân đối của dòng tiền trong 2 năm dịch bệnh bùng phát.

Hiện nay, hàng không đã phục hồi trở lại, đặc biệt các mảng hàng không có tần suất bay cao, như tại Cảng hàng không Phú Quốc đạt 100 chuyến bay/ngày, vượt cả Cam Ranh. Các doanh nghiệp hàng không chuẩn bị khá kịp thời cho giai đoạn phục hồi, các ngành hàng không đã tích cực chuẩn bị, mở các đường bay mới… Để đối phó với những khó khăn này, các doanh nghiệp đã có những thay đổi quan trọng, đặc biệt trong việc tái cấu trúc để thích ứng với xu hướng mới.

Những khó khăn, vướng mắc lớn nhất của các doanh nghiệp hàng không hiện nay là: Trên thế giới vẫn diễn ra những xung đột, liên quan đến việc triển khai các đường bay, phải điều chỉnh bay vòng, bay xa, tác động tiêu cực đến hoạt động của hàng không.

Giá xăng dầu ở mức cao, ảnh hưởng rất lớn các doanh nghiệp.

Tình hình dịch bệnh tuy đã có giảm những chưa hoàn toàn triệt tiêu, vẫn còn những tiềm ẩn nguy cơ cả quốc tế lẫn trong nước.

Nhiều nước vẫn thận trọng trong việc mở cửa bầu trời, đặc biệt là những nước có lượng khách lớn đến với Việt Nam, khiến thị trường hàng không mất một lượng khách lớn, chậm quá trình phục hồi các đường bay quốc tế.

Một yếu tố nữa liên quan đến cơ sở hạ tầng của ngành hàng không dù được tăng cường rất nhiều, nhưng chưa hoàn toàn đáp ứng, còn những điểm nghẽn về hạ tầng, đặc biệt đối với những sân bay lớn như Tân Sơn Nhất, Nội Bài.

Chúng tôi xin có 5 kiến nghị: Thứ nhất là việc phối hợp hoạt động của các cơ quan nhà nước, điều tiết kết cấu hạ tầng, giải quyết triệt để tắc nghẽn ở các sân bay lớn.

Thứ hai, đẩy nhanh tốc độ phát triển hạ tầng hàng không.

Thứ ba, cần thiết phải sửa đổi một số văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến chính sách của ngành hàng không, kể cả nguồn xã hội hoá nguồn vốn đầu tư cho các cơ sở hạ tầng của ngành..

Thứ tư, sớm khôi phục lại đẩy mạnh giao thông hàng không với các quốc gia có lượng khách lớn vào Việt Nam, mở rộng thêm những tuyến, đường bay quốc tế, tích cực triển khai các chương trình quảng bá để cải thiện hình ảnh quốc gia, thu hút khách đến Việt Nam.

Thứ năm, nghiên cứu và điều chỉnh khung giá trần nội địa nội địa cho các hãng hàng không và kiểm soát các hãng mới. Tiếp tục duy trì các chính sách hỗ trợ, liên quan đến miễn giảm thuế đất…09:12 ngày 11/08/2022

TỔNG THUẬT: Hội nghị Thủ tướng với doanh nghiệp  - Ảnh 1.
Phạm Văn Tài, Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Ô tô Trường Hải (Thaco) – Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Phạm Văn Tài, Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Ô tô Trường Hải (Thaco): Dựa trên nền tảng quản trị và những lợi thế đã tạo ra trong quá trình 25 năm hình thành và phát triển, Thaco cam kết tiếp tục đóng góp phát triển cho các ngành kinh tế trọng yếu của đất nước, trở thành doanh nghiệp hàng đầu Việt Nam về lĩnh vực công nghiệp cơ khí và công nghiệp hỗ trợ, ô tô và nông nghiệp để thực hiện sứ mệnh mang lại giá trị cho khách hàng, cho đối tác, cho xã hội và đóng góp cho mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội của đất nước với tinh thần tận tâm phục vụ.

Thaco có một số đề xuất, kiến nghị một số giải pháp để tạo động lực phục hồi phát triển sản xuất kinh doanh nhanh và bền vững như sau:

– Đối với ngành công nghiệp ô tô, để giúp doanh nghiệp lắp ráp sản xuất ô tô trong nước gia tăng tỷ lệ nội địa hóa, nâng cao năng lực cạnh tranh và thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ, kiến nghị Chính phủ xem xét trình Quốc hội sửa đổi bổ sung Luật thuế tiêu thụ đặc biệt, trong đó giá tính thuế giá trị đặc biệt đối với ô tô sản xuất trong nước được tính theo hướng: Giá trị sản xuất trong nước (tức là tỷ lệ nội địa hóa) được khấu trừ vào giá thuế tiêu thụ đặc biệt.

– Đối với ngành cơ khí và công nghiệp hỗ trợ, kiến nghị Chính phủ sớm trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội bổ sung Luật phát triển công nghiệp vào chương trình xây dựng pháp luật năm 2023 được Quốc hội thông qua, tạo hành lang pháp lý để thu hút các doanh nghiệp đầu tư, phát triển sản xuất công nghiệp, thúc đẩy xây dựng nền công nghiệp tự chủ góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.09:03 ngày 11/08/2022

TỔNG THUẬT: Hội nghị Thủ tướng với doanh nghiệp  - Ảnh 1.
Ông Lê Quang Trung, Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Logistics Việt Nam – Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Ông Lê Quang Trung, Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Logistics Việt Nam: Với vai trò là mạch máu lưu thông hàng hoá trong nội địa cũng như quốc tế, kết nối thương mại qua biên giới, Hiệp hội xin đề xuất tập trung vào 2 vấn đề.

Thứ nhất, đẩy mạnh vận tải, phát triển chuỗi cung cứng vận tải, các thương hiệu vận tải.

Thứ hai, tăng tính kết nối dựa trên các nền tảng trung tâm logistics lớn, kết nối các hệ sinh thái của Việt Nam, đặc biệt hệ thống cảng biển quốc gia .

Đối với ngành hàng hải, hiện nay chúng ta đang đẩy mạnh cảng bên cạnh các khu kinh tế lớn. Để tận dụng tối đa sức mạnh và hệ sinh thái, việc hỗ trợ phát triển đội tàu, cảng mang thương hiệu Việt Nam là hết sức cần thiết.

Vừa qua, trong đợt khủng hoảng giá cước (tăng gấp 5-7 lần), lợi nhuận “rơi vào túi” các hãng lớn của nước ngoài. Rõ ràng, Việt Nam chưa được hưởng lợi nhiều trong vấn đề này nên việc đẩy mạnh đội tàu, trong đó có container, là rất quan trọng. Hiện nay, ngoài cơ chế hỗ trợ đã được Chính phủ, bộ ngành quan tâm thì việc phát triển đội tàu cần hoàn thiện chính sách về mua sắm, đấu thầu.

Ngoài ra, vận tải phải liên kết được hàng hoá, bên cạnh sự nỗ lực của doanh nghiệp logistics, vận tải, hàng hải thì cơ chế cần phù hợp với các yếu tố quốc tế, đồng thời hài hoà với điều kiện trong nước. Việt Nam là nước nhập khẩu lớn một số mặt hàng như: than (từ 40-70 triệu tấn/năm) hay xuất khẩu clinker/xi măng trên 25 triệu tấn. Tuy nhiên, đội tàu Việt Nam còn khá nhỏ bé so với đội tàu thế giới nên rất cần cơ chế dành quyền vận tải cho 20-30% sản lượng XNK đó cho đội tàu Việt Nam (trên cơ sở giá thắng thầu vận tải). Các nước khác như Indonesia, Philipines đều áp dụng cơ chế này.

Bên cạnh đó, về phát triển một số hoạt động liên quan đến vận tải đường bộ, Chính phủ đã nỗ lực hỗ trợ hết sức, ví dụ như bình ổn giá xăng dầu. Doanh nghiệp logistics đánh giá rất cao nỗ lực và kết quả đạt được trong điều hành của Chính phủ vừa qua. Theo tôi, cần tiếp tục duy trì và đảm bảo giá xăng dầu ổn định như hiện nay, ít nhất cho tới quý II/2023.

Về vận tải đường biển, thương mại biên giới với Lào và Campuchia cũng rất quan trọng. Hiện nay các hãng vận tải khi sang Lào cần phải được chỉ định bởi một đại lý bên Lào. Vấn đề này sẽ làm tăng thêm chi phí. Hiệp hội cũng đề xuất Chính phủ, bộ ngành lưu tâm, tháo gỡ khó khăn này.

Thời gian tới, chúng ta vẫn đang đối mặt với nhiều nguy cơ tiềm tàng, rất mong Chính phủ tiếp tục chỉ đạo sát sao, linh hoạt, phù hợp và chuẩn bị nhiều phương án khi phát sinh những vấn đề mới, trong bối cảnh mới.08:56 ngày 11/08/2022

TỔNG THUẬT: Hội nghị Thủ tướng với doanh nghiệp  - Ảnh 1.
Ông Nguyễn Quốc Kỳ, Chủ tịch HĐQT Vietravel: Mức giảm VAT 2% quá ít, nên quay lại mức giảm 5%. Du lịch có tính lan tỏa, tác động rất lớn, chúng ta nên quan tâm và cho mức giảm cao hơn – Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Ông Nguyễn Quốc Kỳ, Chủ tịch HĐQT Vietravel: Chúng tôi xin cảm ơn Chính phủ đã mở cửa sớm cho du lịch để triển khai được thị trường du lịch. Du lịch đã có sự hồi phục rất tốt với thị tường trong nước cũng như thị trường nước ngoài. Đối với riêng thị trường du lịch trong nước, chúng tôi đã phục hồi được 130% thị phần, đạt doanh thu bằng trước dịch. Đây là sự kỳ diệu so với giờ này năm ngoái. Chúng tôi cũng cảm ơn các địa phương, các bộ ngành đã liên tục có các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, trong đó có doanh nghiệp du lịch.

Với quy mô hoạt động của Vietravel gồm 40 văn phòng ở trong nước và 6 văn phòng ở nước ngoài phục vụ 1 triệu khách một năm với doanh thu 7.500 tỷ trước dịch thì trong dịch, chúng tôi gần như “đứng hoàn toàn”. Nhưng đến nay sau 6 tháng mở cửa, chúng tôi đã phục hồi.

Bên cạnh những thuận lợi, chúng tôi cũng có những khó khăn, là khó khăn chung của ngành du lịch.

Thứ nhất, chỉ tiêu 5 triệu khách năm nay khó khả thi do thị trường nguồn của chúng ta chưa mở cửa. Thị trường Đông Bắc Á chiếm trên 50% du khách đến Việt Nam hiện nay là Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan… vẫn chưa sẵn sàng mở cửa. Do đó với 18 triệu lượt khách chúng ta tính năm 2019 thì năm nay với trên 60% lượng khách về đây, khả năng phấn đấu đặt ra 5 triệu lượt khách vẫn còn cao. So với Singapore đặt ra 2,34 triệu, Thái Lan đặt ra 5,6 triệu, Malaysia đặt ra 3,4 triệu thì rõ ràng chúng ta đặt mục tiêu 5 triệu là rất cao trong bối cảnh thị trường đang rất khó khăn, đặc biệt sau dịch còn những khó khăn về địa chính trị cũng như xăng dầu, và sự hỗn loạn, đứt gẫy trong chuỗi cung ứng dịch vụ của ngành du lịch.

Đối với trong nước, các doanh nghiệp du lịch, đặc biệt lữ hành hàng không, đã kiệt quệ về lao động, tài chính, phải khôi phục lại toàn bộ. Thị trường du lịch sau dịch là thị trường mới hoàn toàn, an toàn hơn, nhanh và ít trạm hơn. Do đó, phải thay đổi toàn bộ cấu trúc của doanh nghiệp cũng như cấu trúc của cả ngành du lịch.

Ngành du lịch nói chung cũng như Vietravel đưa ra 3 chiến dịch: Rã đông, phục hồi, phát triển. Sau rã đông là phục hồi. Trong giai đoạn phục hồi này, sức ép về tài chính rất lớn. Vietravel có đặc thù vừa là doanh nghiệp du lịch vừa là doanh nghiệp lữ hành, kinh doanh về vận chuyển hàng không nên sức ép tài chính rất lớn. Như vậy vừa phải trả nợ cũ đến hạn, vừa phải chuẩn bị vốn đầu tư mới cho tái cấu trúc doanh nghiệp và xây dựng chuỗi cung ứng dịch vụ, vừa phải trả tiền ngay khi đặt dịch vụ để phục vụ khách. Mặc dù có những hỗ trợ của Chính phủ với người lao động nhưng quy mô rất nhỏ, không có tác động lớn đến sự thay đổi để phục hồi ngành du lịch.

Các gói hỗ trợ của Chính phủ không triển khai được đến doanh nghiệp có nhiều nguyên nhân, trong đó nổi bật là mức giảm VAT 2% quá ít, nên quay lại mức giảm là 5%. Du lịch có tính lan tỏa, tác động rất lớn, chúng ta nên quan tâm và cho mức giảm cao hơn.

Các gói giãn và giảm về tài chính tác dụng quá ngắn, chủ yếu trong giai đoạn dịch, thị trường chưa trở lại nên tác dụng không nhiều. Đề nghị phải xem lại chính sách này. Gói hỗ trợ 2% đến thời điểm này hầu như các doanh nghiệp, như doanh nghiệp du lịch chúng tôi, không tiếp cận được, nhiều rào cản. Các ngân hàng đều yêu cầu muốn vay mới phải trả nợ cũ để bảo đảm an toàn và phải có tài sản thế chấp, nhưng tài sản trong 2 năm dịch đều thế chấp hết rồi. Doanh nghiệp lữ hành chủ yếu nhờ vào nhân lực, tri thức, thương hiệu, các yếu tố này không thế chấp được.

Vận chuyển, đặc biệt vận chuyển hàng không khó khăn, giá nhiên liệu cao, nhiều thời điểm chiếm trên 60% chi phí, cơ cấu giá áp dụng về xăng dầu thường chậm sau 1 tháng, vì vậy các hãng bay, khi giá xăng dầu điều chỉnh, cũng không được hưởng ngay lập tức.

Về chính sách cho du lịch, đội ngũ lao động có kinh nghiệm và trình độ sau đại dịch gần như phải xây dựng lại vì đã chuyển dịch sang ngành nghề khác, nên thiếu hụt lao động có tay nghề.08:45 ngày 11/08/2022

TỔNG THUẬT: Hội nghị Thủ tướng với doanh nghiệp  - Ảnh 1.
Ông Trương Văn Cẩm, Phó Chủ tịch Thường trực kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Dệt May Việt Nam chia sẻ tại Hội nghị – Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Là đại diện hiệp hội doanh nghiệp đầu tiên phát biểu tại Hội nghị, ông Trương Văn Cẩm, Phó Chủ tịch Thường trực kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Dệt May Việt Nam báo cáo một số nét về tình hình sản xuất-kinh doanh 7 tháng, nhận diện một số khó khăn, thách thức cũng như các kiến nghị.

Tình hình sản xuất-kinh doanh 7 tháng của ngành dệt may Việt Nam khá thuận lợi, đơn hàng dồi dào, lực lượng lao động đã dần ổn định. Toàn ngành dệt may Việt Nam đạt nhiều khả quan: tổng kim ngạch xuất khẩu 7 tháng đạt 26,55 tỷ USD, tăng 16,5% so với cùng kỳ năm 2021; Kim ngạch nhập khẩu đạt 15,48 tỷ – tăng 27,9%; Kim ngạch xuất siêu khá khả quan, đạt 11,07 tỷ USD – tăng 31%; Giải quyết gần 2 triệu lao động với thu nhập bình quân 8-8,5 triệu đồng/tháng.

Tuy nhiên, các doanh nghiệp dệt may đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức vào cuối năm 2022.

Ngành dệt may Việt Nam xuất khẩu là chủ yếu nên những biến động của địa chính trị thế giới tác động quan trọng đến ngành dệt may. Ví dụ hiện nay, dịch COVID-19 vẫn diễn biến phức tạp nên một số nước mà ngành dệt may Việt Nam có mối quan hệ lớn như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc vẫn còn áp dụng chính sách “zero COVID” gây khó khăn cho Việt Nam trong việc cung ứng nguyên vật liệu, cũng như tiêu thụ sản phẩm. Bên cạnh đó, lạm phát của Mỹ và châu Âu cũng ảnh hưởng đến sức mua của người lao động, khiến đơn hàng có xu hướng giảm đi. Xung đột giữa Nga và Ukraine cũng khiến nguyên vật liệu đầu vào tăng cao, chi phí vận chuyển cũng tăng rất cao (gấp khoảng 3 lần so với 5 năm gần đây).

Thị trường EU và một số thị trường lớn khác đang có xu hướng đưa ra chiến lược dệt may mới, trong đó có việc sẽ tính tỉ lệ tái chế và carbon.

Thêm nữa tình hình dệt may sử dụng lực lượng lao động rất lớn, qua thời gian chống dịch, có nhiều người lao động về quê và không quay trở lại. Có tình trạng biến động lao động, “nhảy việc”…

Bên cạnh đó, trong thời gian chống dịch vừa qua, tiềm lực về vốn, tài chính của nhiều doanh nghiệp cũng khá khó khăn, có những doanh nghiệp đọng tiền hoàn thuế vat trên 5 tỷ trong thời gian dài.

Phó Chủ tịch Thường trực kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Dệt May Việt Nam đề nghị Chính phủ sớm phê duyệt chiến lược phát triển ngành dệt may, thành lập khu công nghiệp dệt may lớn để giải quyết vấn đề về vải, nhuộm, hoá chất… Vấn đề này liên quan đến xử lý nước thải mà nhiều địa phương cũng không mặn mà, chúng tôi đề nghị các địa phương hỗ trợ, những khu công nghiệp đang tồn tại cũng không có vấn đề gì lớn cả. Chúng ta cần đảm bảo có nguồn vải đáp ứng yêu cầu xuất xứ để hưởng những lợi ích mà FDI mang lại.

Về thuế giá trị gia tăng, kiến nghị Chính phủ và Bộ Tài chính quy định thuế cho sản phẩm dệt may xuất khẩu tại chỗ.

Thêm một vấn đề nữa là lãnh đạo doanh nghiệp hiện nay rất hay gặp các trường hợp khủng bố, đòi nợ, do công nhân đi vay nhưng lãnh đạo bị đòi nợ, gây ra rất nhiều mệt mỏi, bức xúc.08:21 ngày 11/08/2022

TỔNG THUẬT: Hội nghị Thủ tướng với doanh nghiệp  - Ảnh 1.
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng kiến nghị thực hiện 04 nhóm nhiệm vụ, giải pháp trong ngắn hạn và 04 nhóm nhiệm vụ, giải pháp trong dài hạn – Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng: Trước bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước đang có nhiều biến động nhanh chóng hiện nay, đã xuất hiện những khó khăn, thách thức mới mà chúng ta phải đối mặt và cả những thuận lợi và cơ hội mà chúng ta có thể tận dụng. Việc Thủ tướng Chính phủ quyết định tổ chức Hội nghị với doanh nghiệp, nhằm phát huy nội lực, tinh thần sáng tạo, cộng hưởng sức mạnh để chủ động thích ứng, phục hồi nhanh và phát triển bền vững là một sự kiện hết sức có ý nghĩa đối với cộng đồng doanh nghiệp, một lực lượng quan trọng trong việc hiện thực hóa các mục tiêu phát triển của Đất nước mà Đại hội Đảng lần thứ XIII đã đề ra.

Thời gian qua, tình hình thế giới biến động rất nhanh, phức tạp, khó lường, nhiều diễn biến chưa từng có tiền lệ, vượt khỏi khả năng dự báo: Kinh tế thế giới chịu tác động mạnh từ xung đột Nga-Ukraine; lạm phát tăng cao; tăng trưởng kinh tế thấp, thậm chí tăng trưởng âm; xu hướng tăng cường tiết kiệm và thắt chặt chi tiêu; nguy cơ mất an ninh năng lượng, an ninh lương thực toàn cầu…

 Trong bối cảnh đó, dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, sự ủng hộ của Quốc hội, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã nhất quán chỉ đạo, triển khai các chính sách, giải pháp nhằm giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, đảm bảo các cân đối lớn, duy trì một mặt bằng tỉ giá, lãi suất hợp lý. Các con số tăng trưởng ấn tượng trong 7 tháng đầu năm đã phản ánh sự đúng đắn và kịp thời của các chính sách trong thời gian vừa qua.

Các tổ chức quốc tế đều có nhận xét tích cực đối với phát triển kinh tế ở Việt Nam; xếp hạng tín nhiệm dài hạn của Việt Nam ở mức “ổn định” và “tích cực”. Nhiều chuyên gia nhận định khả năng chống chịu của nền kinh tế là khá tốt tại thời điểm hiện tại.

Những kết quả và thành tựu này được cộng đồng doanh nghiệp đánh giá cao. Theo kết quả khảo sát nhanh doanh nghiệp trong quý II/2022, 70-80% doanh nghiệp đánh giá cao mức độ hữu ích trong việc hỗ trợ doanh nghiệp khắc phục khó khăn trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19 theo Nghị quyết số 105/NQ-CP của Chính phủ, quyết định mở cửa nền kinh tế theo Nghị quyết số 128/NQ-CP của Chính phủ, các chính sách miễn, giảm, gia hạn thời hạn nộp một số loại thuế, phí, tiền thuê đất, giảm tiền điện, chính sách hỗ trợ phục hồi kinh tế.

Nhờ việc kiểm soát dịch bệnh, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô cùng với sự nỗ lực vượt qua khó khăn, tinh thần đổi mới, chủ động thích ứng của cộng đồng doanh nghiệp, khu vực doanh nghiệp thời gian qua có nhiều tín hiệu phục hồi khởi sắc.

Đến hết tháng 7/2022, cả nước có khoảng 871.000 doanh nghiệp đang hoạt động có phát sinh thuế, tăng gần 13% so với năm 2019. Trong đó, doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 1,4%; trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng chiếm 31,2% và trong lĩnh vực dịch vụ chiếm 67,4%.

Tính riêng trong 7 tháng đầu năm 2022, số doanh nghiệp gia nhập và quay trở lại thị trường và nguồn vốn đăng ký bổ sung vào nền kinh tế tăng mạnh. Số doanh nghiệp gia nhập và tái gia nhập thị trường với trên 130.000 doanh nghiệp, tăng 26,8% so với cùng kỳ năm 2021, gấp 1,4 lần số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường; Về quy mô, tổng số vốn đăng ký bổ sung vào nền kinh tế trong 7 tháng đầu năm 2022 đạt trên 3,3 triệu tỷ đồng, tăng trên 37 % so với cùng kỳ năm 2021.

Theo báo cáo của các hiệp hội doanh nghiệp, ngành hàng, hiện nay, thị trường của doanh nghiệp đặc biệt là thị trường nội địa trong một số ngành phục hồi trên 75-85% so với thời điểm trước dịch bệnh COVID-19. Doanh thu trong 2 quý đầu năm 2022 tăng mạnh so với cùng kỳ năm trước, một số ngành còn cao hơn so với cùng kỳ trước dịch.

Thị trường du lịch và vận tải hàng không nội địa phục hồi tương ứng là gần 100% và 85%, đặc biệt là sự bùng nổ trong quý II năm nay. Kim ngạch xuất khẩu tiếp tục tăng mạnh, tiếp tục là điểm sáng, đóng góp tích cực cho tăng trưởng kinh tế. 7 tháng đầu năm 2022, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước đạt 216,35 tỷ USD, tăng 16,1% so với cùng kỳ năm trước với 30 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD.

Một điểm đáng mừng trong bối cảnh hiện nay là niềm tin của các nhà đầu tư và doanh nghiệp tiếp tục được củng cố và có xu hướng tích cực. Gần 92% doanh nghiệp cho rằng sẽ giữ nguyên quy mô kinh doanh hoặc mở rộng sản xuất kinh doanh trong quý III/2022; 85% doanh nghiệp chế biến, chế tạo dự kiến tình hình sản xuất kinh doanh trong quý III/2022 sẽ ổn định và có xu hướng tốt lên so với quý II/2022.

Mặc dù hiện nay, khu vực doanh nghiệp đang có sự phục hồi tích cực, nhưng thực tế các doanh nghiệp Việt Nam còn yếu và thiếu cả về số lượng và chất lượng.

Số doanh nghiệp thành lập mới, quay trở lại hoạt động tăng đáng kể nhưng tỉ lệ doanh nghiệp giải thể, dừng hoạt động vẫn còn cao; đồng thời thiếu vắng các doanh nghiệp có quy mô vừa và lớn, quy mô còn quá nhỏ bé so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Đa số doanh nghiệp của nước ta có quy mô siêu nhỏ, nhỏ và vừa, chiếm gần 98% tổng số doanh nghiệp.

Bên cạnh đó, năng lực khoa học công nghệ của các doanh nghiệp còn hạn chế, có nơi còn lạc hậu; doanh nghiệp chưa mạnh dạn đầu tư cho ứng dụng và phát triển khoa học công nghệ, nhất là công nghệ lõi, công nghệ tiên phong. Mới chỉ có 21% doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia được một phần chuỗi giá trị toàn cầu, 14% thành công trong việc liên kết với đối tác nước ngoài, trong khi số doanh nghiệp FDI đầu tư tại Việt Nam có xu hướng tang mạnh trong giai đoạn gần đây.

Nhiều doanh nghiệp còn nặng tư duy kinh doanh thời vụ, ngắn hạn, thiếu tầm nhìn chiến lược dài hạn, ý thức trách nhiệm và nghĩa vụ đối với nhà nước, cộng đồng, xã hội còn hạn chế, nhất là về nghĩa vụ thuế, bảo vệ môi trường, chống gian lận thương mại… Tính liên kết, văn hóa hợp tác giữa các doanh nghiệp Việt Nam còn chưa cao, chưa thực sự tạo thành khối liên kết để cùng nhau phát triển; chưa nhìn được giá trị lợi ích chung của việc hợp tác, liên kết, tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn hơn.

Bên cạnh đó, qua tổng hợp ý kiến của các hiệp hội doanh nghiệp, ngành hàng cho thấy các tháng cuối năm 2022 dự kiến tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức và thể hiện ở 05 nhóm vấn đề sau đây:

Thứ nhất, giá xăng dầu, nguyên, nhiên vật liệu đầu vào, chi phí logistics tăng cao làm tăng chi phí sản xuất kinh doanh, giá thành gói thầu xây dựng tăng từ 18-30% theo từng thời điểm; chi phí logistics tăng cao từ 3 – 5 lần. Mức độ tăng về chi phí của doanh nghiệp cao hơn mức độ tăng về doanh thu trong quý II/2022 so với quý trước đó và cùng kỳ năm ngoái.

Thứ hai, tình trạng thiếu hụt lao động cục bộ trong một số ngành và địa phương; đồng thời, quy định tăng mức lương tối thiểu vùng cũng tạo thêm áp lực cho doanh nghiệp do phải tăng các khoản chi phí được tính tỷ lệ theo lương trong khi giá bán không thể thay đổi đối với đơn hàng đã ký kết, đặc biệt đối với những ngành sử dụng nhiều lao động.

Thứ ba, việc tiếp cận tín dụng, huy động vốn phục vụ sản xuất kinh doanh vẫn là một trong những khó khăn lớn của doanh nghiệp.

Thứ tư, biến động bất lợi ở cả phía cung và cầu. Một số ngành hàng đang xảy ra tình trạng cung linh kiện không đủ phục vụ cho sản xuất, trong khi ở một số ngành khác như dệt may, dự báo đến tháng 9, tháng 10 năm nay tình trạng thiếu đơn hàng sẽ ngày một gia tăng do sức mua của các thị trường nước ngoài giảm mạnh, hàng tồn không bán được, các nhãn hàng trên thế giới không ký đơn hàng mới.

Thứ nămmột số vướng mắc, rào cản về pháp lý tồn tại từ lâu chưa được giải quyết triệt để gây cản trở, làm tắc nghẽn hoạt động đầu tư sản xuất kinh doanh,: nhiều dự án đầu tư ở địa phương chưa triển khai được do các thủ tục liên quan kéo dài nhiều năm; các quy chuẩn về môi trường trong sản xuất chế biến thuỷ sản, tiêu chuẩn về phòng cháy chữa cháy; quy định về phát hành trái phiếu doanh nghiệp đang còn nhiều bất cập… Nguyên nhân chủ yếu do sự chồng chéo, chưa rõ ràng, thiếu tính thực tiễn của một số văn bản quy phạm pháp luật; thiếu thể chế tạo động lực cho cấp thực thi nhất là ở cấp địa phương để họ dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm.

Đây cũng là vấn đề mà cộng đồng doanh nghiệp liên tục phản ánh trong các kỳ Hội nghị của Thủ tướng với doanh nghiệp trước đó, là điều mà doanh nghiệp mong mỏi nhất từ phía các cơ quan chính quyền hơn là các hỗ trợ tài chính khác, tuy nhiên, vẫn chưa được giải quyết thực chất và triệt để.

Mặc dù hiện nay, hoạt động sản xuất kinh doanh đang trên đà phục hồi nhưng bối cảnh thế giới vẫn còn đang diễn biến hết sức phức tạp, khó lường, phía trước vẫn còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ và thách thức, cụ thể như:

– Nguy cơ dịch bệnh COVID-19 và một số dịch bệnh mới bùng phát, trong khi đó tốc độ tiêm chủng vacine COVID-19 ở Việt Nam còn chưa đảm bảo tiến độ đề ra. Vấn đề biến đổi khí hậu, hạn hán, lũ lụt diễn biến phức tạp, bất thường sẽ tiếp tục ảnh hưởng lớn đến sản xuất kinh doanh.

– Sự phục hồi chậm và khó khăn của các đối tác thương mại lớn; khả năng xảy ra suy thoái kinh tế thế giới trong ngắn hạn đang gia tăng; lạm phát tăng cao; các nước tiếp tục điều chỉnh chính sách tiền tệ nhanh hơn, mạnh hơn, tiềm ẩn rủi ro đến ổn định thị trường tài chính, tiền tệ toàn cầu; xung đột tại Ukraine có thể kéo dài, mới đây ở khu vực biển Đông sẽ không chỉ ảnh hưởng đến giá xăng dầu, chi phí vận tải, logistics, chuỗi cung ứng sản xuất, tiêu dùng, mà còn tiềm ẩn rủi ro đến ổn định chính trị khu vực, toàn cầu; nguy cơ khủng hoảng an ninh năng lượng, lương thực.

– Sự dịch chuyển chuỗi cung ứng, xu hướng thị trường theo hướng sản xuất và tiêu dùng bền vững, cam kết của Việt Nam tại COP26, các ưu tiên trong các khuôn khổ hợp tác quốc tế ASEAN, APEC về kinh doanh bền vững, sản xuất xanh; vấn đề thuế cacbon, công cụ kiểm chứng carbon đang áp dụng ngày càng ở nhiều nước trên thế giới đang đặt ra những thách thức cần phải đổi mới của các doanh nghiệp Việt Nam để bắt kịp xu thế, mô hình kinh doanh mới nếu không sẽ bị giảm sức cạnh tranh và bị mất cơ hội tham gia và tiến sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu.

– Kinh tế số, cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đang diễn ra mạnh mẽ trong khi nhiều doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa nhận thức đúng vai trò và tầm quan trọng của công nghệ, chuyển đổi số, còn đi sau thế giới về mặt công nghệ, chưa làm chủ được các công nghệ lõi, công nghệ nền tảng, dẫn đến nguy cơ tụt hậu, giảm sức cạnh tranh trên thị trường.

Thực tiễn này đã đặt ra yêu cầu lớn cho tất cả chúng ta: Cần phải hành động sớm nhất – hiệu quả nhấtđể có thể chủ động vượt qua thách thức, biến nguy thành cơ.

Theo góc nhìn quốc tế, hiện nay uy tín và vị thế của Việt Nam đang được nâng cao. Với nhiều thời cơ và thuận lợi như: kinh tế vĩ mô ổn định, nền kinh tế có khả năng phục hồi nhanh hơn; các hiệp định thương mại tự do mới tạo lợi thế lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu; sự dịch chuyển của các dòng vốn đầu tư nước ngoài; cách mạng công nghiệp lần thứ 4, kinh tế số, kinh tế xanh đang tạo ra xu hướng tiêu dùng mới; các mô hình kinh doanh mới, đem lại cơ hội thị trường để hình thành các chuỗi giá trị, liên kết mới. Đây thực sự là cơ hội giúp cho doanh nghiệp Việt Nam có thể nắm bắt, kiến tạo và tham gia vào một cấu trúc và trật tự thương mại mới.

Chính vì vậy, chúng ta cần phải chắt chiu từng cơ hội nhỏ nhất, dám đối mặt để vượt qua những thách thức lớn nhất; chủ động thích ứng, tận dụng cơ hội, phát triển bền vững, mang lại những giá trị mới to lớn hơn.

Với trách nhiệm là cơ quan tham mưu tổng hợp của Chính phủ, trong bối cảnh thách thức và cơ hội đan xen hiện nay, để hỗ trợ các doanh nghiệp chủ động thích ứng, phục hồi nhanh và phát triển bền vững, Bộ Kế hoạch và Đầu tư xin đề xuất một số quan điểm hỗ trợ phát triển doanh nghiệp trong thời gian tới như sau:

1) Hỗ trợ tối đa cho doanh nghiệp phát triển, coi việc tháo gỡ các rào cản, khó khăn cho doanh nghiệp là nhiệm vụ chính trị quan trọng của các cấp chính quyền từ Trung ương đến địa phương. Nêu cao tinh thần đồng hành, chia sẻ, sát cánh cùng cộng đồng doanh nghiệp. Tập trung triển khai ngay các giải pháp nhằm tháo gỡ những vấn đề cấp bách của doanh nghiệp để khơi thông các điểm nghẽn, tạo đà phục hồi nhanh và phát triển bền vững.

2) Cần bám sát tình hình, chủ động, linh hoạt, quyết liệt, nghiêm túc triển khai thực hiện nhanh, hiệu quả, thực chất toàn diện các chính sách, giải pháp nhằm giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn, đồng thời chống suy giảm đà phục hồi, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; tạo môi trường ổn định, thuận lợi cho các doanh nghiệp yên tâm đầu tư sản xuất kinh doanh.

3) Chủ động xây dựng chính sách và chuẩn bị các nguồn lực cần thiết triển khai các giải pháp dài hạn hỗ trợ doanh nghiệp chủ động thích ứng với các biến động trong tương lai, đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, đón đầu các xu hướng kinh doanh mới, xu hướng thị trường mới để có thể vươn lên, bắt kịp và tiến cùng với thế giới.

Với quan điểm nêu trên, xin kiến nghị thực hiện 04 nhóm nhiệm vụ, giải pháp trong ngắn hạn và 04 nhóm nhiệm vụ, giải pháp trong dài hạn như sau:

Trong ngắn hạn: Thứ nhất, khẩn trương tháo gỡ các vướng mắc, rào cản về pháp lý tồn tại từ lâu chưa được giải quyết triệt để như:

– Khẩn trương thực hiện rà soát, tháo gỡ vướng mắc cho các dự án đầu tư đã được cấp phép, chưa triển khai hoặc đang triển khai nhằm khơi thông nguồn lực đầu tư cho sản xuất kinh doanh và phát triển kinh tế; đồng thời đẩy mạnh công tác thực hiện, giải ngân vốn đầu tư công và các nguồn vốn đầu tư khác.

– Khó khăn về pháp lý hoặc thủ tục đầu tư xây dựng đối với các dự án bất động sản; các quy định về môi trường trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản; tiêu chuẩn, quy chuẩn về phòng cháy, chữa cháy đối với dự án xây dựng; đề xuất miễn, giảm thuế thu nhập cá nhân trong một số ngành bị ảnh hưởng nặng nề bởi dịch bệnh COVID-19…

Thứ hai, tiếp tục hỗ trợ giảm chi phí đầu vào cho doanh nghiệp, tăng cường khả năng tiếp cận các nguồn vốn ưu đãi, nguồn lực hỗ trợ của Nhà nước.

– Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện các dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông, hạ tầng số, tạo thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, giúp cắt giảm chi phí về vật chất và thời gian.

– Nghiên cứu triển khai hỗ trợ một số đối tượng chịu ảnh hưởng nặng nề của giá xăng dầu như hỗ trợ ngư dân bám biển, hỗ trợ doanh nghiệp vận tải, người có thu nhập thấp.

– Khẩn trương công bố giá và chỉ số giá các loại vật liệu theo tháng, phù hợp với diễn biến thị trường; nghiên cứu áp dụng mức giá bán lẻ điện phù hợp đối với “cơ sở lưu trú du lịch” để hỗ trợ phục hồi.

– Tiếp tục có các giải pháp đáp ứng nhu cầu vốn phục vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; đẩy mạnh triển khai chính sách hỗ trợ lãi suất từ ngân sách nhà nước đối với khoản vay của doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh.

Thứ ba, đẩy mạnh triển khai các hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp khắc phục đứt gẫy nguồn cung, đa dạng hóa đối tác, nhà cung cấp nguyên, nhiên, phụ liệu, linh kiện đầu vào đáp ứng đầy đủ nhu cầu sản xuất kinh doanh; tăng cường hỗ trợ doanh nghiệp đa dạng hoá thị trường xuất khẩu, mở rộng thị trường trong nước, tái cơ cấu mặt hàng và thị trường, tránh tình trạng lệ thuộc vào một số thị trường nhất định; thúc đẩy liên kết các doanh nghiệp, sử dụng hàng hóa của nhau, giữ vững và chiếm lĩnh thị trường trong nước.

Thứ tư, tập trung giải quyết tình trạng khan hiếm lao động cục bộ ở một số ngành, một số khu vực; đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng nghề cho người lao động nhằm đáp ứng yêu cầu hiện nay; đẩy mạnh triển khai chính sách, giải pháp hỗ trợ người lao động, đặc biệt tiến độ thẩm tra, giải ngân gói hỗ trợ nhà trọ cho người lao động; hướng dẫn cụ thể tạo thuận lợi cho người lao động và doanh nghiệp thụ hưởng chính sách.

Trong dài hạn: Thứ nhất,tiếp tục hoàn thiện môi trường đầu tư kinh doanh, cải cách thực chất thủ tục hành chính; đẩy mạnh công tác xây dựng chiến lược ngành, quy hoạch cấp tỉnh; tăng cường đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội nhằm tăng cường năng lực cạnh tranh quốc gia; thực hiện các giải pháp, chế tài quản lý việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp hiệu quả, minh bạch; điều chỉnh hoạt động thanh tra, kiểm tra đối với doanh nghiệp theo hướng giảm tối đa cho doanh nghiệp;  gây dựng niềm tin cho doanh nghiệp để có định hướng đầu tư sản xuất kinh doanh dài hạn và bền vững.

Thứ hai, tập trung thúc đẩy chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo trong doanh nghiệp.

– Bố trí nguồn lực hỗ trợ doanh nghiệp đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa thực hiện chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo, chuyển giao công nghệ phù hợp với doanh nghiệp, hướng tới sản xuất xanh và bền vững.

– Đẩy mạnh xây dựng cơ sở hạ tầng số để doanh nghiệp có cơ hội tiếp cận và khai thác, tạo nền tảng phát triển trong tương lai.

– Nghiên cứu thực hiện các cơ chế ưu đãi về thuế, phí cho nhóm doanh nghiệp có quy mô nhỏ và siêu nhỏ, doanh nghiệp có dự án đầu tư gắn với các ngành, lĩnh vực trọng tâm quốc gia và xu thế thúc đẩy doanh nghiệp đổi mới, sáng tạo, ứng dụng khoa học và công nghệ, phát triển các sản phẩm, dịch vụ giá trị gia tăng cao.

Thứ ba,hỗ trợ doanh nghiệp tái cơ cấu lao động, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu đổi mới sáng tạo và cách mạng công nghiệp 4.0. Xây dựng và hoàn thiện chính sách đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, tiệm cận trình độ quốc tế đáp ứng yêu cầu của thị trường trong tình hình mới; tham mưu cơ chế, chính sách thiết thực để huy động và sử dụng hiệu quả mạng lưới tri thức người Việt Nam trong và ngoài nước, hình thành nguồn nhân lực chất lượng cao ở nhiều cấp bậc;

Thứ tư, tăng cường hiệu quả triển khai các chính sách và nguồn lực hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh, chủ động hội nhập quốc tế, nắm bắt và đón đầu các xu hướng kinh doanh mới, xu hướng thị trường mới

– Nghiên cứu cơ chế, chính sách khuyến khích hình thành lực lượng doanh nghiệp có vai trò dẫn dắt trong một số ngành kinh tế trọng điểm, lĩnh vực sản xuất kinh doanh dựa trên nền tảng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, bám sát xu hướng phát triển xanh và bền vững.

– Đẩy mạnh hỗ trợ doanh nghiệp theo quy mô, đặc thù từng nhóm đối tượng cụ thể. Ưu tiên cân đối, bố trí nguồn ngân sách để hỗ trợ triển khai các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh bền vững, chuyển đổi cơ cấu, công nghệ sang hướng hiện đại, giảm thải carbon.

– Tiếp tục có các giải pháp đáp ứng nhu cầu vốn phục vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nhất là tín dụng xanh, trong đó có các gói tài chính cho vay ưu đãi dành cho doanh nghiệp trong việc chuyển đổi cơ cấu, công nghệ sang hướng hiện đại, giảm thải carbon; tăng cường phát triển dịch vụ xếp hạng tín nhiệm; phát triển hệ thống công ty đánh giá hệ số tín nhiệm.

– Tăng cường đào tạo, tư vấn, cung cấp thông tin cho doanh nghiệp để tận dụng lợi thế của các hiệp định thương mại tự do, nắm vững các yêu cầu, điều kiện kỹ thuật, kinh doanh bền vững, giảm thải carbon của đối tác và thị trường quốc tế.

Đối với các hiệp hội doanh nghiệp

– Các tổ chức, hiệp hội doanh nghiệp cần chủ động nghiên cứu, đánh giá thách thức, thời cơ, xu hướng kinh doanh, xu hướng thị trường mới của ngành, lĩnh vực, đặc biệt là các yêu cầu về kinh doanh bền vững, kinh doanh xanh; kịp thời chia sẻ, hướng dẫn, hỗ trợ tư vấn cho doanh nghiệp hội viên.

– Thúc đẩy sự liên kết giữa các doanh nghiệp hội viên; đại diện và tăng cường quyền lợi cho các hội viên của mình trong các quan hệ trong nước và quốc tế; làm cầu nối, vận động chính sách, duy trì đối thoại với Chính phủ và quan hệ với các cơ quan, tổ chức trong nước, nước ngoài về luật và chính sách điều chỉnh hoạt động của cộng đồng doanh nghiệp.

Đối với các doanh nghiệp

– Chủ động nắm bắt, tận dụng từng cơ hội nhỏ nhất, đồng thời có các phương án thích ứng với những biến động trong tương lai; đón đầu các xu hướng kinh doanh mới; đổi mới mô hình hướng tới kinh doanh xanh và bền vững; chú trọng nâng cao giá trị thương hiệu, đạo đức kinh doanh, văn hóa doanh nghiệp; tái cấu trúc doanh nghiệp tạo chuẩn giá trị mới; xây dựng uy tín và thương hiệu của doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường khu vực và quốc tế.

– Đẩy mạnh chuyển đổi số và ứng dụng khoa học công nghệ nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp; mạnh dạn đầu tư hình thành các trung tâm đổi mới sáng tạo tại doanh nghiệp; tập trung đầu tư vào những lĩnh vực mới, công nghệ kỹ thuật khoa học hiện đại.

– Tăng cường liên kết, hợp tác với các doanh nghiệp đặc biệt các doanh nghiệp sẵn sàng chuyển giao các kỹ thuật tiến tiến, tri thức mới, công nghệ hiện đại trên thế giới. Hình thành các chuỗi giá trị, thúc đẩy hợp tác, liên kết với các doanh nghiệp trong và ngoài nước.

 – Quan tâm đến việc đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và chế độ giữ chân người lao động, tái cấu trúc lao động để thích ứng và đón đầu các xu hướng mới của thị trường.08:06 ngày 11/08/2022

TỔNG THUẬT: Hội nghị Thủ tướng với doanh nghiệp  - Ảnh 1.

Phát biểu khai mạc, Thủ tướng Phạm Minh Chính nhắc lại, vào thời điểm này năm ngoái (8/8/2021), trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19 còn diễn biến hết sức phức tạp, cũng tại Hội trường này, Chính phủ đã tổ chức Hội nghị gặp gỡ với đại diện doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp; nhiều thảo luận sôi nổi, thẳng thắn, nhiều ý tưởng, giải pháp đã được bàn thảo, hiến kế cho Chính phủ nhằm tìm ra giải pháp ứng phó với dịch bệnh, tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ doanh nghiệp chủ động thích ứng, phục hồi và phát triển sản xuất kinh doanh. Ở thời điểm đó, tâm trạng chúng ta rất lo lắng khi dịch bệnh diễn biến phức tạp.

Đến nay, sau 2 năm chống dịch và 7 tháng đầu năm 2022, nhiệm vụ lớn nhất là kiểm soát dịch bệnh chúng ta đã làm được. Về kinh tế, chúng ta giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát được lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng, GDP tăng 7,72% trong quý II năm 2022, bảo đảm các cân đối lớn (thu-chi, xuất nhập khẩu, lương thực-thực phẩm, năng lượng, cung cầu lao động), đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân nhìn chung được nâng lên. Chúng ta giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội; thúc đẩy và mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập phù hợp tình hình, các quan điểm của Việt Nam về các vấn đề quốc tế được bạn bè quốc tế đồng tình, ủng hộ.

Những kết quả này có được là nhờ sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp, thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư, đứng đầu là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, sự giám sát, đồng hành của Quốc hội, sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, sự ủng hộ của Nhân dân và doanh nghiệp, sự hỗ trợ của bạn bè, đối tác quốc tế.

TỔNG THUẬT: Hội nghị Thủ tướng với doanh nghiệp  - Ảnh 2.
Thủ tướng trao đổi với các đại biểu tham dự Hội nghị – Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Thủ tướng bày tỏ chia sẻ với các khó khăn, thách thức mà các doanh nghiệp gặp phải khi vừa chống dịch, vừa thực hiện trách nhiệm xã hội, vừa duy trì hoạt động kinh doanh trong thời gian qua; cảm ơn sự đóng góp tích cực, quan trọng của các doanh nghiệp với công tác phòng, chống dịch COVID-19 về vaccine, thuốc, trang thiết bị, vật tư y tế…, thể hiện trách nhiệm xã hội rất cao trong những lúc đất nước gặp khó khăn, thách thức, với tình cảm, tinh thần nhân văn cao cả theo truyền thống, đạo lý “lá lành đùm lá rách”, càng khó khăn, thách thức càng đoàn kết, thống nhất của dân tộc ta. Thủ tướng chúc mừng các doanh nghiệp đã phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo, vượt khó vươn lên, cơ bản các doanh nghiệp phát triển được trong bối cảnh vừa qua, đạt nhiều kết quả rất đáng trân trọng.

Thủ tướng dành nhiều thời gian phân tích về tình hình thế giới diễn biến phức tạp, khó lường, chưa có tiền lệ trong thời gian qua, ảnh hưởng mạnh đến kinh tế toàn cầu cũng như từng quốc gia. Theo đó, cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn gia tăng, xung đột Nga – Ukraine vẫn kéo dài, khó đoán định. Chuỗi cung ứng, lao động, sản xuất tiếp tục đứt gãy cục bộ; giá cả nguyên vật liệu, đầu vào và giá nông sản quan trọng có dấu hiệu hạ nhiệt nhưng vẫn ở mức cao, tiềm ẩn biến động, lạm phát ở nhiều nước tăng cao kỷ lục kể từ 3-4 thập kỷ gần đây. An ninh năng lượng, an ninh lương thực đang ở mức đáng báo động; an ninh phi truyền thống, thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu tiếp tục diễn biến phức tạp. Nhiều quốc gia, trong đó có những đối tác lớn của nước ta thay đổi chính sách theo hướng tăng lãi suất, thắt chặt tiền tệ, tài khóa. Rủi ro về tài chính, tiền tệ, nợ công và nguy cơ suy thoái kinh tế tiếp tục xu hướng gia tăng. Các tổ chức quốc tế tiếp tục điều chỉnh giảm dự báo tăng trưởng toàn cầu năm 2022.

Với Việt Nam, nền kinh tế có độ mở lớn, quy mô còn hạn chế, sức chống chịu có hạn; khó khăn, thách thức nhiều hơn thời cơ, thuận lợi. Mặc dù có những thuận lợi, kế thừa thành quả của những nhiệm kỳ trước, song vẫn có những khó khăn nội tại, những vấn đề tồn đọng nhiều năm phải xử lý. Trong bối cảnh đó, chúng ta vừa phải triển khai các nhiệm vụ thường xuyên, vừa giải quyết các vấn đề tồn đọng, kéo dài, vừa đối phó, thích ứng với các diễn biến mới. Thủ tướng nhấn mạnh, mục tiêu ưu tiên hiện nay là ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng, bảo đảm các cân đối lớn; thực hiện chính sách tiền tệ thận trọng, chủ động, linh hoạt, kịp thời, hiệu quả, phối hợp chặt chẽ, đồng bộ với chính sách tài khoá mở rộng hợp lý, tập trung, bảo đảm hiệu quả. Chúng ta cũng đang xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ ngày càng cao gắn với tích cực, chủ động hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất, hiệu quả, trong đó, có yêu cầu phát triển đội ngũ doanh nghiệp lớn mạnh.

Hội nghị được tổ chức nhằm đánh giá thực chất, khách quan các tác động của tình hình kinh tế thế giới đến Việt Nam, thực trạng, khó khăn, thách thức cộng đồng doanh nghiệp đang đối mặt, kết quả đạt được và chưa đạt được trong triển khai chính sách, giải pháp của Chính phủ thời gian qua.

Trên cơ sở nhận diện thời cơ, thách thức, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ mong muốn lắng nghe các chia sẻ, đề xuất, sáng kiến của cộng đồng doanh nghiệp, các hiệp hội để cùng tháo gỡ khó khăn, khắc phục những điểm nghẽn trong triển khai chính sách; đồng thời, hiến kế bổ sung các giải pháp trên tinh thần “lợi ích thì hài hoà, rủi ro thì chia sẻ”; góp phần phát triển kinh tế-xã hội nói chung, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, phát triển doanh nghiệp đúng hướng, lành mạnh, bền vững.

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận