Những yếu tố tích cực cho tăng trưởng GDP năm 2024
Trang Mai 13:50 | 10/11/2023 Doanh Nhân Việt Nam trên

Dự báo cho tăng trưởng kinh tế quý IV và năm 2024 của Việt Nam, nhiều chuyên gia cho rằng vẫn còn rất nhiều bất trắc đối với tăng trưởng toàn cầu. Dù vậy, tăng trưởng GDP cả năm 2023 có thể đạt khoảng 5%, sau đó tăng lên 6-6,5% vào năm 2024.
Nền kinh tế trong tháng đầu của quý cuối năm diễn biến chậm nhưng đã tích cực
Trong báo cáo vĩ mô triển vọng kinh tế cuối năm và một số kỳ vọng về năm 2024 vừa công bố, Chứng khoán Rồng Việt (VDSC) cho rằng tăng trưởng lĩnh vực sản xuất trong tháng 10 không thực sự khởi sắc khi tham chiếu với mức tăng thấp của cùng kỳ. Cụ thể, chỉ số sản xuất công nghiệp chỉ tăng 4,1%, cần lưu ý rằng tháng 10/2022 chỉ số này chỉ tăng 5,5% và thấp hơn đáng kể so với mức tăng 10,3% của tháng 9/2022 do nhu cầu thế giới giảm sâu trong quý cuối năm ngoái. Mặc dù thống kê của Tổng cục Thống kê cho thấy chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 10 tăng 5,5% so với tháng trước nhưng số liệu tháng 9 lại được điều chỉnh giảm mạnh từ số liệu sơ bộ là 5,1% xuống chỉ còn 2,9%. Tính chung 10 tháng 2023, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng 0,5% so với cùng kỳ, nhích tăng nhẹ so với mức tăng 0,3% của 9 tháng 2023.
Công ty chứng khoán nhận định, diễn biến này cũng tương đồng với kết quả khảo sát PMI ngành sản xuất của Việt Nam trong tháng 10 khi sản lượng giảm tháng thứ hai liên tiếp. Đặc biệt, thống kê cho thấy nhu cầu đơn hàng mới phục hồi với tốc độ chậm. Và mặc dù tâm lý lạc quan về triển vọng một năm tới được tái khẳng định thì những thông điệp từ báo cáo PMI tháng 10 cho thấy sự bấp bênh về triển vọng phục hồi trong ngắn hạn, chẳng hạn như “khách hàng vẫn ngần ngại trong việc cam kết đơn hàng mới” hay “nỗ lực tăng mua hàng không có kết quả khi tồn kho hàng mua tiếp tục giảm”. Chỉ số PMI tháng 10 ghi nhận ở mức 49,6 điểm, không thay đổi nhiều so với mức 49,7 điểm trong tháng 9.
Trong hoạt động thương mại, tăng trưởng tiếp tục cải thiện ở hai chiều xuất và nhập khẩu. Theo ước tính của Tổng cục Thống kê, xuất khẩu trong tháng 10 đạt 32,3 tỷ USD, tăng 5,9% so với cùng kỳ và tăng 5,3% so với tháng trước nhờ sự phục hồi tiếp tục của xuất khẩu hàng điện tử (+8,3% so với cùng kỳ) trong khi các nhóm ngành xuất khẩu chủ lực khác như dệt may, thuỷ sản, giày dép vẫn ghi nhận mức tăng trưởng âm. Nhập khẩu trong tháng 10 ước đạt 29,3 tỷ $, tăng 5,2% so với cùng kỳ và 2,9% so với tháng trước, đáng chú ý là nhập khẩu điện tử, máy tính và linh kiện tăng 26,4% so với cùng kỳ cho thấy triển vọng tích cực hơn về tăng trưởng xuất khẩu trong hai tháng còn lại của năm 2023.
Trong một cái nhìn tích cực, tại Diễn đàn Đầu tư Việt Nam 2024 do VietnamBiz phối hợp cùng CFO Việt Nam tổ chức ngày 9/11, ông Nguyễn Xuân Thành, Chuyên gia kinh tế, Giảng viên Trường Chính sách công và quản lý Fulbright nhận định kết quả xuất khẩu tháng 10 cho thấy tín hiệu phục hồi và tăng trưởng tích cực.
Tồn kho ở các thị trường giảm xuống, các doanh nghiệp xuất khẩu có đơn hàng đã trở lại, đặc biệt là thị trường Mỹ. Các hãng tàu cũng lạc quan khi thấy tín hiệu xuất khẩu tốt lên và thông thường tháng 11, tháng 12 sẽ rất tích cực.
Mặt khác, hai nền kinh tế có sự sụt giảm xuất khẩu sâu nhất đầu năm nay là Việt Nam và Đài Loan (Trung Quốc) đều cùng phục hồi.

Ông Nguyễn Xuân Thành đánh giá bước sang năm 2024, kinh tế sẽ có nhiều bất trắc. Trường hợp, kinh tế toàn cầu, trong đó có Mỹ có thể hạ cánh mềm thì Việt Nam có thể phục hồi xuất khẩu sang thị trường này. Nếu kinh tế Trung Quốc không quá xấu thì có thể tạo động lực xuất khẩu cho cả năm 2024.
“Vẫn còn rất nhiều bất trắc đối với tăng trưởng toàn cầu. Dù vậy, xuất khẩu của Việt Nam năm 2024 có thể tăng trưởng 5 – 7%, chứ không bị âm như năm 2023”, chuyên gia Nguyễn Xuân Thành nói.
Chặng đường nước rút cuối năm và chuẩn bị cho năm 2024
Trong báo cáo trình kỳ họp Quốc hội thứ 6 – Khoá XV đang diễn ra, Chính phủ đã đưa ra dự báo tăng trưởng GDP cả năm 2023 đạt khoảng 5%, sát với kỳ vọng chung của thị trường. Tăng trưởng GDP quý IV dự kiến sẽ tăng khoảng 7% so với cùng kỳ.
VDSC đánh giá dự báo này dựa trên việc lĩnh vực sản xuất công nghiệp cuối năm cải thiện so với các quý trước và được hỗ trợ bởi mức nền thấp của cùng kỳ (trong quý IV/2022, tăng trưởng của ngành công nghiệp chế biến chế tạo chỉ đạt 3%, thấp hơn mức tăng 5,6% ghi nhận tại thời điểm quý III/2023) và đầu tư công tiếp tục hỗ trợ tăng trưởng. Tính chung 10 tháng, đầu tư phát triển ước đạt 401.900 tỷ đồng, và sẽ tiếp tục tăng khi giải ngân vào các dự án trọng điểm cuối năm.
Quốc hội cũng đã biểu quyết thông qua Nghị quyết về Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2024 với đa số phiếu tán thành (90,49%). Nghị quyết đặt ra mục tiêu, tốc độ tăng trưởng GDP năm 2024 từ 6 – 6,5%.
Theo đánh giá của VDSC, đây là một mục tiêu phù hợp dựa trên một số kỳ vọng: Lĩnh vực sản xuất, đặc biệt là xuất khẩu tiếp tục phục hồi ở mức vừa phải; chi đầu tư công dự kiến tăng thêm 13% so với kế hoạch ngân sách trình Quốc hội năm ngoái và tăng thêm 19% so với dự toán năm 2023, chưa kể phần vốn của chương trình phục hồi và phát triển kinh tế chưa giải ngân hết được kéo dài thời gian thực hiện sang năm 2024, và niềm tin kinh doanh và niềm tin tiêu dùng phục hồi khi mặt bằng lãi suất giảm kéo theo sự phục hồi hoạt động kinh tế trong nước tích cực hơn năm 2023.
Trong năm 2024, mục tiêu lạm phát dự kiến là 4-4,5%. Theo báo cáo mới đây của Worldbank, yếu tố chính tác động đến triển vọng thị trường hàng hoá năm 2024 chính là nhu cầu toàn cầu dự kiến sẽ yếu đi và kéo theo sự suy giảm của các loại hàng hoá từ năng lượng đến kim loại cơ bản. Tuy nhiên, rủi ro địa chính trị ảnh hưởng lên giá dầu vẫn còn là ẩn số, giá dầu tăng mạnh sẽ tác động đến triển vọng của các hàng hoá khác từ lương thực đến kim loại. Trong kịch bản cơ sở, VDSC đánh giá mục tiêu của Chính phủ đối với lạm phát năm 2024 là tương đối thận trọng, lạm phát dự báo cho năm 2024 có thể thấp hơn so với mục tiêu, chỉ ở mức 3,5-3,8%.

Đối với chính sách tài khoá, theo ước tính của Bộ Tài chính, bội chi ngân sách nhà nước năm 2023 ước đạt 4% GDP, thấp hơn so với kế hoạch là 4,4% GDP. Trong đó, chương trình phục hồi và phát triển kinh tế dự kiến chưa giải ngân hết trong năm 2023 và sẽ kéo dài thời gian thực hiện sang năm 2024. Đồng thời, dự toán bội chi ngân sách nhà nước năm 2024 giữ ở mức 3,6% GDP, không thay đổi so với kế hoạch ngân sách trước đây. Dự toán này được xây dựng trên cơ sở tiếp tục thực hiện mức thuế BVMT đối với xăng dầu, mỡ nhờn và thực hiện giảm 2% thuế suất VAT trong 6 tháng đầu năm 2024. Trong trường hợp được thông qua tại kỳ họp này, triển vọng chính sách tài khoá năm 2024 sẽ không có nhiều điểm đột phá trong việc thúc đẩy tăng trưởng và phục hồi.
Đối với chính sách tiền tệ, một điểm đáng chú ý trong định hướng của Chính phủ trong năm 2024 là phấn đấu mục tiêu tăng trưởng tín dụng 15%, cao hơn mục tiêu 14-15% đã đặt ra trong năm 2023. Nhìn lại thực tế tăng trưởng tín dụng hiện nay, tính đến 27/10/2023, tăng trưởng tín dụng đạt 7,1% so với đầu năm, tương ứng với mức tăng khoảng 10% so với cùng kỳ. Triển vọng tăng trưởng tín dụng năm 2024 theo VDSC sẽ tích cực hơn năm 2023 do mặt bằng lãi suất đã giảm là điều kiện cần, tuy nhiên điều kiện đủ là sự phục hồi mạnh hơn của hoạt động sản xuất kinh doanh, đầu tư và tiêu dùng, đáng lưu ý là tín dụng vay mua nhà. Đối chiếu với triển vọng cả năm 2024, công ty chứng khoán cho rằng mục tiêu tăng trưởng tín dụng 15% là tương đối tham vọng.
Bài viết liên quan

Thủ tướng Phạm Minh Chính gặp Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump
27/10/2025

Thủ tướng Phạm Minh Chính tham dự Hội nghị Cấp cao ASEAN 3 với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc
27/10/2025

Phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm với đại biểu tham dự Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ 7
27/10/2025

Nếu như tuần trước giá vàng liên tục phá đỉnh thì tuần này giá vàng trải qua cú lao dốc mạnh. Chuyên gia cho rằng nhà đầu tư nên cẩn trọng khi tham gia thị trường vàng trong giai đoạn này. Giá vàng biến động mạnh Hai tuần qua đánh giá giai đoạn biến động mạnh của thị trường vàng trong nước và thế giới. Giá vàng thế giới liên tục thiết lập kỷ lục mới và tạo đỉnh lịch sử 4.400 USD/ounce vào ngày 21/10. Diễn biến giá vàng thế giới trong 6 tháng qua (Nguồn: Tradingeconomocs) Giá vàng miếng trong nước đạt đỉnh gần 155 triệu đồng/lượng (chiều bán ra) và 153,6 triệu đồng/lượng chiều mua vào. Tuy nhiên sau đó, giá vàng thế giới lao dốc mạnh xuống 4.100 USD/ounce vào ngày 22/10 do áp lực chốt lời. Điều này kéo giá vàng miếng trong nước cũng giảm theo xuống 148,6 triệu đồng/lượng. Tính đến ngày 25/10, giá vàng miếng trong nước phục hồi hồi nhẹ lên 149 triệu đồng/lượng. Số liệu: Wichart, SJC (Tố Tố tổng hợp) Những biến động mạnh của thị trường vàng vừa qua được đánh giá tiềm ẩn rủi ro. Trao đổi với chúng tôi, chuyên gia tài chính TS. Nguyễn Trí Hiếu, phân tích “cú sập” của giá vàng vừa qua là do áp lực chốt lời của các nhà đầu tư. Bên cạnh đó, những vấn đề địa chính trị cũng đã có dấu hiệu ổn hơn, giúp hạ nhiệt nhu cầu tìm đến tài sản trú ẩn an toàn. Ngoài ra, chỉ số USD Index cũng tăng trong mấy ngày vừa rồi. Chuyên gia cho rằng tất cả những yếu tố đó đã làm hạ nhiệt vàng thế giới và vàng trong nước cũng giảm theo. “Những người đã mua ở vùng giá cao, có lẽ cũng nên xác định ngưỡng chịu đựng để cắt lỗ. Còn những người nào chưa có vàng mà mua vào ở thời điểm này cũng nên thận trọng”, ông Hiếu cho biết. Ông nói thêm rằng không có gì có thể đảm bảo chắc chắn rằng đà giảm của giá vàng đã kết thúc. Trong khảo sát mới đây của trang Kitco News, một số chuyên gia cho rằng giá vàng trong ngắn hạn đang tiềm ẩn rủi ro giảm giá. Ông Adrian Day, Chủ tịch Adrian Day Asset Management, dự đoán giá vàng sẽ giảm trong ngắn hạn. “Có thể giá vàng sẽ còn yếu thêm một chút trước khi hình thành mặt bằng giá mới. Tôi không kỳ vọng đợt điều chỉnh này kéo dài hay sâu” ông nói. Ông Marc Chandler, Giám đốc điều hành tại Bannockburn Global Forex, nhận định “Giá vàng đã chấm dứt chuỗi tăng kéo dài chín tuần liên tiếp vào tuần trước, và khá tiêu cực. Điều này dường như xuất phát từ hoạt động định vị của thị trường hơn là yếu tố vĩ mô. Trên thị trường giao ngay, giá vàng đã chạm đáy gần 4.000 USD/ounce hôm thứ Tư. Tôi kỳ vọng giá sẽ vượt mốc 4.200 USD, lý tưởng nhất là 4.240 USD, để xác nhận vùng đáy mới đã được hình thành.” Ông Sean Lusk, đồng giám đốc bộ phận phòng ngừa rủi ro thương mại tại Walsh Trading, cho rằng vàng đã đến lúc cần một đợt điều chỉnh, và việc dự đoán hướng đi tiếp theo của giá ngày càng trở nên khó khăn. “Diễn biến giá tại thị trường chứng khoán đang hoạt động cực kỳ tốt. Tôi nghĩ nền kinh tế đang làm tốt hơn nhiều so với kỳ vọng — diễn biến cổ phiếu đã phản ánh điều đó. Ngay cả đồng USD cũng chưa suy yếu. Giá kim loại đã rời xa mức đáy, vẫn ở mức cao, nhưng câu hỏi là liệu thị trường có bắt đầu tách khỏi diễn biến của chứng khoán hay chưa. Đến lúc này thì chưa. Chúng ta đã giảm nhẹ khỏi vùng đỉnh sau giai đoạn bị mua quá mức, nhưng nhìn chung thị trường vẫn giữ được nhịp,” ông nói. Đó là thị trường thế giới, còn đối với thị trường trong nước, một rủi ro khác có thể khiến giá vàng giảm chính là nguồn cung vàng trong thời gian tới có thể tăng lên. Với Nghị định 232, chính sách Nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất nhập khẩu vàng nguyên liệu được xoá bỏ. Điều này đồng nghĩa nguồn cung vàng tăng lên, giải toả phần nào nhu cầu tích trữ của người dân, qua đó giá cũng được kỳ vọng hạ nhiệt. “Nếu mà nguồn cung vàng dồi dào hơn, giá vàng sẽ bớt biến động mạnh như thời gian vừa qua”, ông Hiếu nói. Hiện tại, giá vàng trong nước đang cao hơn khoảng 18 triệu đồng/lượng so với thế giới do nguồn cung trong nước vẫn còn hạn chế. Mặc dù vậy, ông cho rằng trong ngắn hạn nguồn cung vàng vẫn chưa quá nhiều ngay cả khi đối tượng được phép nhập khẩu vàng nguyên liệu đã được mở rộng sang doanh nghiệp và ngân hàng thương mại có đủ điều kiện. Do đó, việc thu hẹp khoảng cách giá vàng giữa hai thị trường sẽ cần thời gian. Chiến lược mua vàng Trong bối cảnh hiện tại, chuyên gia cho rằng nhà đầu tư cần xác định khẩu vị rủi ro mục tiêu của mình để quyết định có nên mua vàng hay không. Ông Hiếu cho biết có ba mục tiêu trong đầu tư là: an toàn vốn, tạo ra lợi nhuận và đảm bảo tính thanh khoản. Nhà đầu tư có thể chọn mục tiêu nào được ưu tiên nhất để từ đó đưa ra quyết định trong đầu tư vàng. Sau khi đã xác định được mục tiêu, nhà đầu tư cần xác định khẩu vị rủi ro ở mức nào để từ đó xem xét mức giá hiện tại đã phù hợp hay chưa. “Tuy nhiên, không nên để trứng vào một giỏ mà chia ra các kênh khác nhau như chứng khoán, bất động sản, tiết kiệm. Bên cạnh đó, với mức độ biến động giá ở thị trường vàng hiện tại, nhà đầu tư cần theo dõi sát thị trường bởi giá có thể tiếp tục xuống và chúng ta không thể biết được khi nào là chạm đáy”, ông Hiếu chia sẻ. Tuy nhiên, ông cho rằng một số yếu tố hỗ trợ giá vàng vẫn còn như tình hình bất ổn địa chính trị trên thế giới vẫn chưa giải quyết dứt điểm, chính phủ Mỹ vẫn đang đóng cửa….
27/10/2025

 
              