Xử lý nghiêm các trường hợp ảnh hưởng đến giải ngân vốn đầu tư công

Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Thành Long phát biểu giải trình, làm rõ một số vấn đề đại biểu Quốc hội nêu. (Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN)
Tại phiên thảo luận về tình hình kinh tế – xã hội của Quốc hội chiều 30/10, Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Thành Long đã giải trình, làm rõ một số vấn đề được đại biểu Quốc hội nêu về tài chính, ngân sách nhà nước, đầu tư công.
Thay mặt Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Phó Thủ tướng Lê Thành Long cảm ơn các đại biểu Quốc hội đã phát biểu và có ý kiến góp ý cụ thể, thiết thực. Theo Phó Thủ tướng, trong bối cảnh rất khó khăn, chúng ta đã nỗ lực, quyết tâm cao nhất trong thực hiện các dự toán thu, chi ngân sách nhà nước đạt và vượt toàn bộ 12/12 chỉ tiêu chủ yếu của cả nhiệm kỳ.
Thu ngân sách nhà nước ước đạt 9,6 triệu tỷ đồng, gấp 1,36 lần nhiệm kỳ trước và vượt xa mục tiêu là 8,3 triệu tỷ đồng; trong khi đó chúng ta thực hiện việc miễn, giảm, gia hạn thuế, phí, lệ phí khoảng 1,1 triệu tỷ đồng và tăng thu tiết kiệm chi 1,57 triệu tỷ đồng. Tập trung thực hiện chính sách tài khóa mở rộng hợp lý, có trọng tâm, trọng điểm, bảo đảm hiệu quả; phối hợp hài hòa, chặt chẽ với chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, kịp thời và hiệu quả để góp phần thúc đẩy tăng trưởng.
Nợ công, nợ Chính phủ, nợ nước ngoài và bội chi ngân sách nhà nước được kiểm soát tốt, thấp hơn nhiều giới hạn quy định. Nợ công giảm từ 44,3% GDP năm 2020 xuống còn khoảng 35 – 36% năm 2025 (giới hạn là 60% GDP). Bội chi ngân sách nhà nước bình quân giảm từ 3,53% GDP giai đoạn 2016 – 2020 xuống còn 3,1 – 3,2% GDP của nhiệm kỳ này.
Về công tác dự toán thu ngân sách nhà nước, trong bối cảnh tình hình thế giới biến động mạnh, nhìn chung khó khăn, thách thức nhiều hơn so với thời cơ và thuận lợi, công tác xây dựng và dự toán thu ngân sách nhà nước được thực hiện theo nguyên tắc thận trọng, bảo đảm an ninh, an toàn tài chính quốc gia.
Các vấn đề như bội chi ngân sách nhà nước, nợ công, nợ Chính phủ, nợ nước ngoài đều trong giới hạn an toàn theo quy định, bảo đảm đủ nguồn để đáp ứng yêu cầu chi cho đầu tư phát triển con người, bảo đảm an sinh xã hội, chi cho quốc phòng – an ninh và các nhiệm vụ cấp bách phát sinh như thiên tai, bão lũ…
Chính phủ đã chỉ đạo quyết liệt công tác quản lý thu, bảo đảm thu đúng, thu đủ, thu kịp thời; đẩy mạnh ứng dụng chuyển đổi số, mở rộng phạm vi áp dụng hóa đơn điện tử, tập trung chống thất thu đối với thương mại điện tử và các hoạt động dịch vụ như ăn uống, khách sạn…
Tổng số tăng thu ngân sách nhà nước của cả nhiệm kỳ 2021 – 2025 đạt 1,57 triệu tỷ đồng, được sử dụng để tăng chi cho đầu tư phát triển, chi cho con người (như tăng lương), quốc phòng – an ninh và các nhiệm vụ quan trọng, cấp bách khác. Trong cơ cấu thu ngân sách giai đoạn 2021 – 2025, thu từ sản xuất kinh doanh chiếm tỷ trọng chủ yếu, đạt 62,5%; thu từ tiền sử dụng đất chiếm 13%, thu từ xuất nhập khẩu chiếm 13,2%.

Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Thành Long phát biểu giải trình, làm rõ một số vấn đề đại biểu Quốc hội nêu. (Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN)
Về cơ cấu chi ngân sách nhà nước, chi cho đầu tư phát triển chiếm từ 32 – 33%, chi thường xuyên chiếm 57 – 58% (nhiệm kỳ trước số liệu lần lượt là 28% và 63,2%). Theo kế hoạch năm 2026 – 2030, chi đầu tư phát triển phấn đấu tăng lên khoảng 40% và chi thường xuyên khoảng 51%.
Cùng với đó, dự toán thu ngân sách nhà nước năm 2026 được xây dựng bám sát các mục tiêu, nhiệm vụ theo các nghị quyết của Đảng và Quốc hội. Trong đó, thu nội địa từ sản xuất kinh doanh tăng khoảng 11,1%, là mức phấn đấu cao nhất từ trước đến nay, cao hơn mục tiêu tăng trưởng kinh tế là 10%, đồng thời có tính đến những tác động và ảnh hưởng của các yếu tố như thu từ xuất nhập khẩu, đất đai và tài nguyên.
Phó Thủ tướng Lê Thành Long cho biết, thời gian tới, Chính phủ tiếp tục chỉ đạo Bộ Tài chính, các cơ quan liên quan triển khai các giải pháp tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số, tập trung làm tốt hơn công tác phân tích, dự báo phục vụ xây dựng dự toán thu và quản lý thu, chi ngân sách nhà nước.
Về giải ngân vốn đầu tư công từ đầu năm 2025 đến nay, báo cáo sơ bộ đến hết ngày 23/10/2025, đã giải ngân 465 nghìn tỷ đồng, đạt 51,7% theo kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao. Tỷ lệ giải ngân tương đương so với cùng kỳ năm 2024 là 51,5%, nhưng số vốn tuyệt đối cao hơn khoảng 115.658 tỷ đồng (cùng kỳ năm 2024 là 349.170 tỷ đồng).
Phó Thủ tướng nhận định, nhìn chung giải ngân vốn đầu tư công có xu hướng thấp vào đầu năm, tăng mạnh vào cuối năm do các nhà thầu cần thời gian để thi công và tích lũy khối lượng đủ để nghiệm thu và thanh toán vào cuối năm. Trong nhiệm kỳ, tính chung 9 tháng các năm giải ngân chỉ khoảng 49 – 51%, trong khi kết quả giải ngân cuối năm đạt từ 91 – 95%.
Từ đầu nhiệm kỳ đến nay, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã tập trung chỉ đạo quyết liệt, đẩy mạnh thực hiện giải ngân vốn đầu tư công ngay từ đầu năm, xác định rõ đây là một nhiệm vụ chính trị trọng tâm của các bộ, ngành, địa phương và người đứng đầu phải chịu trách nhiệm.
Thủ tướng Chính phủ, các Phó Thủ tướng, các thành viên Chính phủ thường xuyên, liên tục kiểm tra thực địa, tập trung giải quyết vướng mắc, đôn đốc và thực hiện, gần như tuần nào cũng có thành viên Chính phủ ở các địa phương để đôn đốc thực hiện nhiệm vụ này.

Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Thành Long phát biểu giải trình, làm rõ một số vấn đề đại biểu Quốc hội nêu. (Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN)
Về mặt thể chế, Chính phủ đã trình Quốc hội tập trung sửa đổi các quy định của pháp luật liên quan để tháo gỡ các vướng mắc về đầu tư công; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền triệt để, toàn diện 12 nội dung cho các bộ, địa phương; chuyển đổi phương thức quản lý đầu tư công từ tiền kiểm sang hậu kiểm…
Tuy nhiên, việc giải ngân vốn đầu tư công có lúc, có nơi còn chậm, nhìn chung chưa đáp ứng yêu cầu do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan. Tiếp thu ý kiến của các đại biểu Quốc hội, Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Thành Long khẳng định, Chính phủ sẽ tiếp tục tập trung chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương khẩn trương khắc phục những hạn chế, bất cập, quyết tâm phấn đấu hoàn thành tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công năm 2025 đạt mục tiêu 100% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao, cao hơn bình quân các năm trước khoảng 5 – 6%.
Bên cạnh đó, Chính phủ tiếp tục rà soát, hoàn thiện các quy định pháp luật, đẩy mạnh hoạt động của các tổ công tác, đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng, thi công, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, nâng cao chất lượng công tác chuẩn bị và triển khai đầu tư xây dựng; thực hiện nghiêm các quy định của Luật Đầu tư công (sửa đổi) và xử lý nghiêm các trường hợp ảnh hưởng đến giải ngân vốn đầu tư công, điều chuyển cán bộ, xem xét trách nhiệm người đứng đầu kết hợp với các quy định của Đảng về công tác cán bộ.
Bài viết liên quan

Tổng Bí thư Tô Lâm dự Tọa đàm Doanh nghiệp Việt Nam – Anh
31/10/2025

Thủ tướng: Nền kinh tế Việt Nam đủ sức chống chịu và đã vượt qua được các cú sốc rất lớn từ bên ngoài
31/10/2025

Chớ nên vội mừng với thoả thuận mới của hai nhà lãnh đạo Mỹ – Trung
31/10/2025

Mỹ mới đây đã tuyên bố áp thuế mới theo Mục 232 đối với các mặt hàng gỗ và nội thất nhập khẩu, với mức tăng kỷ lục lên tới 50% từ đầu năm 2026. Động thái này, theo các hiệp hội và doanh nghiệp trong ngành, có thể tác động trực tiếp đến hơn 9 tỷ USD sản phẩm gỗ xuất khẩu của Việt Nam, thị trường vốn phụ thuộc lớn vào Mỹ, đồng thời đặt ra yêu cầu cấp thiết về tái cấu trúc thị trường, sản phẩm và chiến lược phát triển bền vững. Thuế 232 và tác động tới ngành gỗ xuất khẩu Ngày 30/9, Mỹ tuyên bố sẽ áp thuế 10% đối với gỗ và gỗ xẻ nhập khẩu, đồng thời áp thuế 25% đối với tủ bếp, tủ phòng tắm và đồ nội thất bọc nệm. Các mức thuế này có hiệu lực từ 14/10/2025 và sẽ tăng mạnh từ ngày 1/1/2026, trong đó thuế đối với đồ nội thất bọc có thể lên tới 30% và đối với tủ bếp, bàn trang điểm có thể tăng tới 50%. Những mức thuế mà Mỹ đưa ra cũng sẽ tiếp tục tăng mạnh từ đầu năm 2026, gây thêm sức ép cho các quốc gia xuất khẩu gỗ và đồ nội thất sang Mỹ, trong đó có Việt Nam. Chia sẻ với phóng viên Doanh nhân Việt Nam, ông Ngô Sỹ Hoài, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam, cho biết nguyên nhân là Washington viện dẫn Mục 232 của Đạo luật Thương mại 1974, cho rằng nhập khẩu gỗ và nội thất “đe dọa an ninh quốc gia”. Theo ông Hoài, lập luận này mâu thuẫn khi chuyển từ lý do “an ninh quốc gia” sang “bảo hộ ngành công nghiệp trong nước”. Động thái này lập tức gây lo ngại tại các quốc gia xuất khẩu lớn như Canada, Mexico và Việt Nam. “Hơn 9 tỷ USD sản phẩm gỗ Việt Nam nằm trong nhóm chịu thuế 25%, và việc tìm thị trường thay thế Mỹ trong ngắn hạn gần như bất khả thi”, ông Hoài cho hay. Ông Ngô Sỹ Hoài, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam. Ảnh: Mai Trang. Ông Hoài cho biết, Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam đã kiến nghị Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các Bộ Công Thương, Ngoại giao, Nông nghiệp và Môi trường khẩn trương đàm phán với phía Mỹ để đạt thỏa thuận cụ thể về thuế đối ứng. “Nếu đàm phán không thành công, mức thuế 50% và 30% sẽ tự động có hiệu lực từ ngày 1/1/2026, ảnh hưởng trực tiếp đến nhóm sản phẩm gỗ xuất khẩu chủ lực của Việt Nam”, ông cảnh báo. Trước đó, trong phiên trao đổi trực tuyến giữa các hiệp hội ngành hàng gỗ, doanh nghiệp xuất khẩu đồ gỗ, và đại diện cơ quan thương vụ, đại sứ quán Việt Nam tại Mỹ tối ngày 2/10, ông Phạm Quang Huy, Tham tán phụ trách Nông nghiệp, Đại sứ quán Việt Nam tại Mỹ, cho biết Tòa án Tối cao Mỹ đang xem xét tính hợp pháp của thuế 232, song ngay cả khi bị vô hiệu, chính quyền Trump vẫn có thể tiếp tục áp dụng công cụ thuế này.  Theo ông Trần Lê Huy, Phó Chủ tịch Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Bình Định, Mỹ phân loại các sản phẩm gỗ thành ba nhóm chính: Ảnh: Mai Trang tổng hợp. Ngoài ra, ván ép (HS 4412) sẽ chịu thuế 20% từ 14/10/2025 – một thay đổi quan trọng vì trước đó mặt hàng này không nằm trong diện chịu thuế đối ứng. Một số doanh nghiệp cảnh báo phạm vi tăng thuế còn bao gồm sắt, thép – ảnh hưởng tới phụ kiện nội thất. Ông Đỗ Ngọc Hưng, Trưởng Cơ quan Thương vụ Việt Nam tại Mỹ, cho rằng việc Việt Nam bị áp thuế cao hơn EU, Nhật hay Anh bắt nguồn từ lo ngại doanh nghiệp Trung Quốc “lẩn tránh thuế” bằng cách chuyển sản xuất sang Việt Nam.  “Việt Nam và Mỹ đã nâng tầm quan hệ lên Đối tác chiến lược toàn diện, như quan hệ giữa Mỹ với EU, Nhật, Anh. Nhưng tại sao đồ nội thất gỗ bọc nệm hàng từ Anh chỉ chịu thuế 10%, từ EU và Nhật 0 – 15%, trong khi Việt Nam bị áp thuế cao? Lý do chính là lo ngại doanh nghiệp Trung Quốc lẩn tránh thuế bằng cách chuyển sản xuất sang các nước này”, ông Hưng đặt vấn đề. Doanh nghiệp gỗ cần đổi hướng: Mở rộng thị trường, chuyển sản phẩm lên phân khúc cao và tiếp cận vốn xanh Dù thách thức chồng chất, nhiều chuyên gia cho rằng đây cũng là cơ hội để ngành gỗ Việt Nam tái cấu trúc, nâng cao năng lực và củng cố vị thế bền vững trên thị trường toàn cầu, nơi ngành gỗ Việt Nam hiện đạt doanh thu 16 – 17 tỷ USD mỗi năm. Theo ông Ngô Sỹ Hoài, phía Mỹ vẫn để ngỏ khả năng đàm phán với từng quốc gia. Việt Nam có lợi thế cạnh tranh nhờ chi phí nhân công thấp và nguồn nguyên liệu chủ yếu từ gỗ rừng trồng như keo, cao su, cùng một phần gỗ nhập khẩu từ Mỹ như sồi, tần bì, dẻ gai, phong. “Việt Nam cũng là quốc gia tiêu thụ đáng kể gỗ Mỹ. Trong bối cảnh thương mại Mỹ – Trung căng thẳng, doanh nghiệp Việt Nam đã thể hiện thiện chí khi ưu tiên nhập khẩu gỗ tròn, gỗ xẻ từ Mỹ, giúp giảm thặng dư thương mại của Việt Nam với Mỹ,” ông nói. Ông cho biết thêm, lượng nhập khẩu gỗ từ Mỹ trong 9 tháng qua gần như tăng gấp đôi so với cùng kỳ năm trước, thể hiện cam kết hợp tác rõ ràng của doanh nghiệp Việt. Thuế quan với ngành gỗ vẫn còn “mở” với nhiều cơ hội đàm phán. Ảnh: Mai Trang. Ông Hoài nhấn mạnh, trên nền tảng quan hệ đối tác chiến lược toàn diện, thương mại Mỹ – Việt được xem là mang tính bổ trợ, không mang tính cạnh tranh trực tiếp. “Mỹ vẫn được hưởng lợi đáng kể từ việc nhập khẩu, phân phối và tiêu thụ sản phẩm gỗ của Việt Nam. Nguồn cung đồ gỗ nội thất từ Việt Nam giúp người tiêu dùng Mỹ tiếp cận sản phẩm chất lượng tốt, giá hợp lý, đáng tin cậy, điều mà thị trường Mỹ khó có thể tìm được ở nguồn cung thay thế khác,” ông khẳng định. Tổng Thư ký Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam cho rằng ngành gỗ Việt Nam đang bước vào giai đoạn tái cấu trúc quan trọng sau thời gian dài đối mặt với áp lực thị trường và suy giảm đơn hàng. Để thích ứng, doanh nghiệp cần tập trung đồng bộ vào nhiều nhóm giải pháp, từ thị trường, sản phẩm cho đến tài chính và nhân lực. Theo ông Hoài, một trong những giải pháp then chốt là khơi thông và đa dạng hóa thị trường xuất khẩu. Các doanh nghiệp gỗ Việt Nam cần đẩy mạnh nghiên cứu, mở rộng sang những thị trường ngách, thị trường mới nổi hoặc có yêu cầu linh hoạt hơn về tiêu chuẩn. Song song, cần tận dụng các hiệp định thương mại tự do (FTA) để giảm phụ thuộc vào một số thị trường truyền thống như Mỹ hay EU. Bên cạnh đó, ông Hoài nhấn mạnh tái cơ cấu sản phẩm là hướng đi tất yếu. Doanh nghiệp không thể chỉ dựa vào các sản phẩm nội thất khối lượng lớn, giá trị gia tăng thấp mà cần chuyển hướng sang sản phẩm tinh xảo, thân thiện môi trường hoặc mang yếu tố thiết kế đặc trưng của Việt Nam. Điều này vừa đáp ứng xu hướng tiêu dùng xanh, vừa giúp nâng cao thương hiệu gỗ Việt trên thị trường quốc tế. Về tài chính, ông Hoài đề xuất tăng cường tiếp cận các nguồn vốn xanh và ưu đãi cho các dự án sản xuất bền vững. Chính phủ và các tổ chức tín dụng nên có chính sách hỗ trợ tín dụng dài hạn cho doanh nghiệp đầu tư công nghệ sạch, chứng chỉ rừng bền vững (FSC) và chuỗi cung ứng minh bạch. Ngoài ra, ông Hoài cũng cho rằng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là yếu tố không thể thiếu. Cần có sự phối hợp giữa các trường nghề, hiệp hội và doanh nghiệp để đào tạo đội ngũ thợ lành nghề, kỹ sư thiết kế và quản lý chuyên nghiệp, đủ năng lực đáp ứng yêu cầu sản xuất hiện đại và cạnh tranh quốc tế. Ông Hoài khẳng định, việc triển khai đồng bộ các giải pháp trên sẽ giúp ngành gỗ Việt Nam vượt qua giai đoạn khó khăn, hướng tới mô hình phát triển bền vững, tự chủ và có khả năng thích ứng cao trước những biến động của thị trường toàn cầu.
31/10/2025

 
              