Thủ tướng: Nền kinh tế Việt Nam đủ sức chống chịu và đã vượt qua được các cú sốc rất lớn từ bên ngoài

(Chinhphu.vn) – Phát biểu tại hội trường Quốc hội ngày 30/10, Thủ tướng Phạm Minh Chính nêu rõ, trong 5 năm qua, chúng ta đã đạt được những thành quả rất đáng tự hào, nền kinh tế của chúng ta vẫn đủ sức chống chịu, vượt qua được các cú sốc rất lớn từ bên ngoài.

0:00

30/10/2025  20:14
Thủ tướng: Nền kinh tế Việt Nam đủ sức chống chịu và đã vượt qua được các cú sốc rất lớn từ bên ngoài- Ảnh 1.

Phát biểu tại hội trường Quốc hội ngày 30/10, Thủ tướng Phạm Minh Chính nêu rõ, trong 5 năm qua, chúng ta đã đạt được những thành quả rất đáng tự hào, nền kinh tế của chúng ta vẫn đủ sức chống chịu, vượt qua được các cú sốc rất lớn từ bên ngoài – Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Chiều 30/10, Quốc hội tiếp tục thảo luận tại hội trường về các báo cáo ngân sách. Đây cũng là nội dung kết thúc 2 ngày thảo luận tại hội trường Quốc hội về kinh tế – xã hội, ngân sách Nhà nước và báo cáo của các cơ quan, trong đó có Chính phủ.

Sau khi Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Thành Long giải trình về các nội dung ngân sách Nhà nước, đầu tư công, cơ chế quản lý và huy động các nguồn lực xã hội, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã phát biểu, làm rõ thêm một số nội dung được đại biểu Quốc hội quan tâm.

Thủ tướng Phạm Minh Chính nêu rõ, sau 2 ngày làm việc sôi nổi, trách nhiệm, trí tuệ, các đại biểu Quốc hội đã có những phát biểu rất chân thành, thẳng thắn và cũng thể hiện sự động viên với hệ thống chính trị, động viên nhân dân, động viên doanh nghiệp, trong đó có động viên Chính phủ.

Những điều đã làm được là rất tự hào

Trân trọng cảm ơn các ý kiến của đại biểu Quốc hội, Thủ tướng cho biết, kiểm điểm lại 5 năm qua, mỗi năm chúng ta luôn xác định khó khăn, thách thức đan xen thời cơ, thuận lợi, nhưng khó khăn, thách thức nhiều hơn; tất cả các kết luận của Trung ương, Nghị quyết của Quốc hội đều khẳng định vấn đề này. Dù vậy, chúng ta vẫn rất cố gắng, nỗ lực.

Bên cạnh đó, nước ta vẫn là nước đang phát triển, có nền kinh tế đang chuyển đổi, quy mô nền kinh tế còn khiêm tốn, độ mở cao, sức chống chịu với các cú sốc bên ngoài còn hạn chế. Tuy nhiên, trong 5 năm qua, nền kinh tế của chúng ta vẫn đủ sức chống chịu, vượt qua được các cú sốc rất lớn từ bên ngoài.

Nhờ đó, chúng ta mới ổn định được kinh tế vĩ mô, kiểm soát được lạm phát, thúc đẩy được tăng trưởng, đảm bảo được các cân đối lớn (thu đủ chi; xuất đủ nhập; làm đủ ăn; năng lượng đủ cho sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng; thị trường lao động đáp ứng được sự chuyển đổi; bội chi ngân sách thấp hơn so với Quốc hội giao và thấp hơn so với các nhiệm kỳ trước đây; nợ công, nợ nước ngoài, nợ Chính phủ đều giảm so với trước đây). Đời sống của nhân dân được nâng lên, Chỉ số hạnh phúc của người dân tăng 39 bậc so với đầu nhiệm kỳ. Tiềm lực quốc phòng, an ninh được tăng cường.

“Chưa bao giờ chúng ta đầu tư để tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh nhiều như nhiệm kỳ này. Chúng ta đã tự sản xuất một số vũ khí, nhờ đó lễ diễu binh, diễu hành ngày 2/9 có các sản phẩm mang thương hiệu của Việt Nam. Trong đó, tự hào nhất là có những loại vũ khí chỉ có 4-5 nước làm được mà chúng ta đã làm được. Nhân dân ta rất tự hào”, Thủ tướng cho biết thêm. Chúng ta xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, chính quy, từ từng bước hiện đại tới đi thẳng lên hiện đại.

Thủ tướng: Nền kinh tế Việt Nam đủ sức chống chịu và đã vượt qua được các cú sốc rất lớn từ bên ngoài- Ảnh 2.

Thủ tướng cho biết, trong nhiệm kỳ này, nhiều dự án tồn đọng, kéo dài nhiều năm được xử lý quyết liệt, đạt kết quả tích cực, góp phần giải phóng nguồn lực cho phát triển – Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Cùng với đó, an sinh xã hội cũng chưa bao giờ bố trí nhiều ngân sách như nhiệm kỳ này, đơn cử như với 68 triệu người được hỗ trợ trong đại dịch COVID-19, chúng ta đã chi 1,1 triệu tỷ đồng, bằng 17% GDP của đất nước cho an sinh xã hội.

“Trong điều kiện như vậy, chúng ta làm được như thế là nỗ lực rất lớn của hệ thống chính trị, của nhân dân, của doanh nghiệp dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam, thường xuyên, trực tiếp là Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, đứng đầu là đồng chí Tổng Bí thư, cùng với sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế”, Thủ tướng phát biểu.

Người đứng đầu Chính phủ cho rằng, những thành quả đạt được là rất đáng trân trọng, rất cơ bản trong bối cảnh khó khăn; nhờ đó chúng ta tự lực, tự cường, tự chủ chiến lược, tạo thế, tạo đà, tạo lực, tạo niềm tin cho nhân dân, cho đất nước tự tin tiến vào kỷ nguyên mới, xây dựng đất nước giàu mạnh, văn minh, phồn vinh, hạnh phúc, vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Bên cạnh đó, Thủ tướng nêu rõ, còn rất nhiều khó khăn, vướng mắc, bất cập mà Chính phủ đã nhận ra và các đại biểu Quốc hội đã đề cập rất đúng, rất trúng, với các ý kiến rất trách nhiệm, rất xây dựng; từ đó phải đưa ra giải pháp phù hợp, khả thi, đảm bảo nguồn lực thực hiện để đạt được mục tiêu. Thủ tướng khẳng định Chính phủ sẽ tiếp thu các ý kiến này để hoàn thiện các báo cáo, tinh thần là tất cả đoàn kết, thống nhất, chung sức, đồng lòng hướng đến mục tiêu chung, tất cả vì quốc gia, dân tộc, tất cả vì lợi ích của nhân dân, của đất nước.

Một nội dung quan trọng khác được Thủ tướng đề cập là trong nhiệm kỳ này, nhiều dự án tồn đọng, kéo dài nhiều năm được xử lý quyết liệt, đạt kết quả tích cực, góp phần giải phóng nguồn lực cho phát triển, trong đó có 12 dự án, doanh nghiệp thua lỗ (nhiều dự án đã có hiệu quả, có lãi), các dự án năng lượng quan trọng, 4 ngân hàng yếu kém và thêm ngân hàng SCB. Các cơ quan đang chỉ đạo rà soát, phân loại, đề xuất các cấp có thẩm quyền tiếp tục xử lý gần 3.000 dự án các loại với tổng vốn hàng triệu tỷ đồng và quy mô sử dụng đất hàng trăm nghìn ha.

Cùng với đó, về hạ tầng, bám sát mục tiêu của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, đến hết năm 2025, dự kiến hoàn thành vượt mục tiêu 3.000 km đường cao tốc 1.700 km đường ven biển.

Thủ tướng cho biết, điều được nhiều đại biểu quan tâm là hệ số ICOR (chỉ số hiệu quả sử dụng vốn) của Việt Nam từ khoảng 10-11-12 trước đây đã giảm xuống còn khoảng 6-7. Chúng ta đã tập trung giải quyết 3 nguyên nhân quan trọng khiến ICOR cao, từ đó nâng cao hiệu quả đầu tư, gồm: Đầu tư không có hiệu quả khi làm dự án; đầu tư dàn trải; dự án kéo dài, không đúng tiến độ). Nhiệm kỳ này, chúng ta đã cơ cấu lại, khởi động lại, đưa vào hoạt động hàng loạt dự án như các Nhà máy điện Sông Hậu 1, Long Phú 1, Thái Bình 2, BOT Vân Phong 1, Nhà máy lọc dầu Nghi Sơn, điện khí Ô Môn, mỏ khí Lô B…

Thủ tướng: Nền kinh tế Việt Nam đủ sức chống chịu và đã vượt qua được các cú sốc rất lớn từ bên ngoài- Ảnh 3.

Thủ tướng cũng đề cập 2 vấn đề cụ thể hơn được nhiều đại biểu quan tâm và Phó Thủ tướng Lê Thành Long đã báo cáo, đó là về đầu tư công và dự toán thu – chi ngân sách Nhà nước – Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Mục tiêu quan trọng là thu đủ chi và bảo đảm an toàn tài chính quốc gia

Tiếp đó, Thủ tướng tiếp tục đề cập 2 vấn đề cụ thể hơn được nhiều đại biểu quan tâm và Phó Thủ tướng Lê Thành Long đã báo cáo, đó là về đầu tư công và dự toán thu – chi ngân sách Nhà nước.

Theo Thủ tướng, giải ngân đầu tư công chậm là trăn trở của cả hệ thống chính trị; trong khi một trong những động lực tăng trưởng là đầu tư (gồm đầu tư công và đầu tư tư nhân).

Theo Thủ tướng, nhiệm kỳ này, có 3,4 triệu tỷ đồng vốn đầu tư công, tăng 55% so với nhiệm kỳ trước; nhưng các dự án đầu tư được cắt giảm từ 12.000 xuống còn 4.700, sau 3 lần Thủ tướng kiên quyết yêu cầu các cơ quan. Dự án ít đi thì mới tập trung được nguồn lực, từ đó mới làm được hệ thống đường cao tốc mới ở ĐBSCL, phía Bắc, miền Trung…, mở rộng các tuyến cao tốc trước đây; đầu tư các bến cảng, đường sắt tiêu chuẩn Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng và đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam…

Điều này cũng góp phần làm tăng trưởng GDP vượt chỉ tiêu 6,5-7%/năm do Quốc hội giao (năm 2021 do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, tăng trưởng chỉ đạt 2,55%; giai đoạn 4 năm 2022 – 2025 tăng trưởng bình quân 7,2%/năm, vượt mục tiêu 6,5 – 7%).

“Quốc hội và Chính phủ đã tháo gỡ nhiều khó khăn để thúc đẩy đầu tư công; nhưng có những vướng mắc thể chế 3-4 năm mới tháo gỡ được”, Thủ tướng cho biết.

Ông lấy ví dụ, trong triển khai dự án đầu tư công thì khó khăn nhất là giải phóng mặt bằng, tái định cư; nhưng trước đây quy định phải tái định cư, ổn định đời sống nhân dân rồi mới tiến hành các bước tiếp theo. “Những vướng mắc về giải phóng mặt bằng, tái định cư đến tháng 10/2024, sau 3 lần trình Quốc hội mới tháo gỡ được”, Thủ tướng lý giải.

Một ví dụ khác là trước đây, không được điều chỉnh vốn đầu tư từ dự án này sang dự án kia, vốn của địa phương này không được cho địa phương kia, “vốn của địa phương không được làm đường của Trung ương”. Theo Thủ tướng, chúng ta nhận thức vấn đề này chưa rõ, “đường là của quốc gia, dân tộc Việt Nam, chứ không phải đường đi qua địa phương nào là đường của địa phương đó”. Vấn đề này gần đây cũng được tháo gỡ.

Tuy vậy, ông cũng thừa nhận so với mong muốn và trông đợi của nhân dân thì việc tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, bất cập còn chưa đạt yêu cầu. Thời gian tới, chúng ta tiếp tục tháo gỡ vướng mắc liên quan luật pháp về đất đai, hay thực hiện chính quyền địa phương 2 cấp đang dần đi vào nền nếp nhưng cũng cần tiếp tục tháo gỡ vướng mắc.

Đồng thời, chủ trương phân cấp, phân quyền phải đi đôi với phân bổ nguồn lực, nâng cao năng lực thực thi, tăng cường kiểm tra, giám sát. Các địa phương, như Đắk Lắk, Thái Bình (cũ), Ninh Bình (cũ), Bình Phước (cũ)… cũng đã tự tin khi được giao làm chủ đầu tư các dự án hạ tầng.

Thủ tướng cũng đề cập đến việc tổ chức thực hiện, triển khai các dự án đầu tư công còn gặp khó khăn do các yếu tố khách quan, như đại dịch, mưa lũ, bão lụt, triều cường. “Chúng tôi đi đôn đốc, nhưng cũng phải chia sẻ với các chủ đầu tư về những khó khăn khách quan này. Dĩ nhiên, phải vượt qua được các khó khăn khách quan này mới là giỏi”, Thủ tướng nêu rõ.

Thủ tướng: Nền kinh tế Việt Nam đủ sức chống chịu và đã vượt qua được các cú sốc rất lớn từ bên ngoài- Ảnh 4.

Thủ tướng cho biết, mục tiêu tăng trưởng 8% năm 2025 và hai con số từ năm 2026 là nhiệm vụ khó khăn. Tuy vậy, Thủ tướng khẳng định có cơ sở khoa học và thực tiễn để thực hiện mục tiêu này, phát huy sức mạnh của dân tộc ta – Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Vấn đề cụ thể thứ hai được nhiều đại biểu quan tâm là liên quan dự toán thu – chi, Thủ tướng cho rằng, mục tiêu quan trọng đặt ra là phải đảm bảo thu, chi, thu phải đủ chi, đồng thời đảm bảo an toàn tài chính quốc gia. Phải tăng đầu tư cho phát triển, cho những mục tiêu lớn, đảm bảo an sinh xã hội khi cần, chi cho người có công, chi cho các vấn đề phát sinh đột xuất như đại dịch COVID-19, ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai. Thủ tướng nhắc lại các nhiệm kỳ trước, đã có lúc phải ban hành nghị quyết để dừng lại một loạt các dự án.

Phân tích thêm, Thủ tướng cho biết trong nhiệm kỳ này, dự toán chi trước hết tập trung cho 3 việc, gồm chi cho con người, chi thường xuyên; chi đảm bảo tiềm lực quốc phòng để giữ được độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội; chi đảm bảo an sinh xã hội, bảo đảm công bằng, tiến bộ, nhất là trong dịch bệnh, thiên tai, đứt gãy các chuỗi cung ứng…

Theo Thủ tướng, trên cơ sở đó, phải tính toán thu sao cho đủ chi. Nhiệm kỳ vừa qua, chúng ta đã bảo đảm được những nhiệm vụ chi rất quan trọng. Nếu thu không đủ thì hụt chi và mất cân đối, bội chi tăng cao.

Ở chiều ngược lại, Thủ tướng cho rằng Chính phủ đã sử dụng rất hiệu quả phần tăng thu, tiết kiệm chi nhằm đạt được các mục tiêu đã đề ra, từ an sinh xã hội đến tăng chi đầu tư phát triển, bảo đảm an ninh quốc phòng. Trong đó, triển khai hàng loạt chính sách như miễn, hỗ trợ học phí, tiền ăn trưa cho học sinh, xây dựng hơn 200 trường biên giới, xóa nhà tạm, nhà dột nát, cải cách tiền lương…

Thủ tướng nêu rõ, Chính phủ đã thực hiện theo đúng các mục tiêu, nhiệm vụ và yêu cầu của Quốc hội; và tất cả những khoản tăng thu, giảm chi này đều xin ý kiến Quốc hội và đi vào đúng hướng. Ông cũng khẳng định dự toán ngân sách của Chính phủ đều phải dựa trên cơ sở dữ liệu và các nguyên tắc quản trị rủi ro.

“Như các đại biểu Quốc hội đang đề xuất lại phải tăng lương tiếp vào năm tới này, từ 1/7/2026. Trên cơ sở ý kiến Quốc hội chúng tôi sẽ xem xét, cân đối và xin ý kiến các cấp có thẩm quyền, trong đó có Quốc hội, chúng ta sẽ tăng lương sớm hơn”, Thủ tướng cho biết. Đồng thời, từ kinh nghiệm rút ra, chúng ta phải xây dựng dự toán thu chi cho hợp lý hơn như các đại biểu Quốc hội phát biểu.

Phân tích thêm về phương hướng, nhiệm vụ của năm 2026, Thủ tướng cho biết, mục tiêu tăng trưởng 8% năm 2025 và hai con số từ năm 2026 là nhiệm vụ khó khăn như nhiều đại biểu Quốc hội đã phân tích. Tuy vậy, Thủ tướng khẳng định có cơ sở khoa học và thực tiễn để thực hiện mục tiêu này, phát huy sức mạnh của dân tộc ta.

“Dân tộc ta càng áp lực càng nỗ lực, phát triển; cái khó ló cái khôn; biến không thành có, biến khó thành dễ, biến cái không thể thành cái có thể. Trên thực tế, điều này đã được chứng minh”, Thủ tướng khẳng định.

Ông dành thời gian nói nhiều về định hướng phát triển “đi sâu vào lòng đất, vươn ra biển xa và bay lên trời cao”, qua đó tập trung vào khai thác không gian biển, lòng đất và không gian vũ trụ với dư địa còn rất lớn. Đơn cử, chúng ta cần khai thác hiệu quả 8 tầng nguyên-nhiên liệu ở khu vực 1 triệu km2 biển khơi, gấp khoảng 3 lần diện tích đất liền.

Thủ tướng nêu rõ, điểm tựa cho các định hướng này là con người, thiên nhiên và truyền thống văn hóa, lịch sử của dân tộc Việt Nam. Như Thủ tướng đã từng đề cập, “6 điểm tựa Việt Nam” gồm: Tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc; sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; truyền thống lịch sử – văn hóa; nhân dân làm nên lịch sử, sức mạnh bắt nguồn từ nhân dân; điểm tựa quân đội, công an; tinh thần tự lực, tự cường của dân tộc ta,

Thủ tướng cho biết, các nghị quyết của Trung ương, Bộ Chính trị gần đây đều nhấn mạnh vào các định hướng này dựa trên nền tảng phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Đồng thời, huy động sức mạnh của toàn dân theo phương châm: Nhà nước kiến tạo, doanh nghiệp tiên phong, công tư đồng hành để đất nước phát triển, nhân dân ấm no, hạnh phúc.

Thủ tướng cũng dành thời gian phân tích về các chính sách điều hành vĩ mô, trong đó có chính sách tiền tệ còn dư địa lớn; làm mới các động lực tăng trưởng truyền thống là đầu tư, tiêu dùng, xuất khẩu, thúc đẩy các động lực mới là kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế sáng tạo…

“Mục tiêu rất khó, nhưng phải làm và làm có cơ sở khoa học, thực tiễn. Tôi tin chắc với không khí hiện nay thì chúng ta làm được. Đảng đã chỉ đạo, Chính phủ đã thống nhất, Quốc hội đã đồng tình, nhân dân trông đợi, Tổ quốc chờ mong, bạn bè quốc tế ủng hộ… thì chỉ bàn làm, không bàn lùi”, Thủ tướng nhắc lại điều ông phát biểu nhiều lần.

Hà Văn

Bài viết liên quan

Tổng Bí thư Tô Lâm dự Tọa đàm Doanh nghiệp Việt Nam – Anh
Tổng Bí thư Tô Lâm dự Tọa đàm Doanh nghiệp Việt Nam – Anh
31/10/2025
Chớ nên vội mừng với thoả thuận mới của hai nhà lãnh đạo Mỹ – Trung
Chớ nên vội mừng với thoả thuận mới của hai nhà lãnh đạo Mỹ – Trung
31/10/2025
Xử lý nghiêm các trường hợp ảnh hưởng đến giải ngân vốn đầu tư công
Xử lý nghiêm các trường hợp ảnh hưởng đến giải ngân vốn đầu tư công
31/10/2025
Mỹ mới đây đã tuyên bố áp thuế mới theo Mục 232 đối với các mặt hàng gỗ và nội thất nhập khẩu, với mức tăng kỷ lục lên tới 50% từ đầu năm 2026. Động thái này, theo các hiệp hội và doanh nghiệp trong ngành, có thể tác động trực tiếp đến hơn 9 tỷ USD sản phẩm gỗ xuất khẩu của Việt Nam, thị trường vốn phụ thuộc lớn vào Mỹ, đồng thời đặt ra yêu cầu cấp thiết về tái cấu trúc thị trường, sản phẩm và chiến lược phát triển bền vững. ‏‏‏‏Thuế 232 và tác động tới ngành gỗ xuất khẩu‏ ‏Ngày 30/9, ‏‏Mỹ‏‏ tuyên bố sẽ áp thuế 10% đối với gỗ và gỗ xẻ nhập khẩu, đồng thời áp thuế 25% đối với tủ bếp, tủ phòng tắm và đồ nội thất bọc nệm. Các mức thuế này có hiệu lực từ 14/10/2025 và sẽ tăng mạnh từ ngày 1/1/2026, trong đó thuế đối với đồ nội thất bọc có thể lên tới 30% và đối với tủ bếp, bàn trang điểm có thể tăng tới 50%.  Những mức thuế mà Mỹ đưa ra cũng sẽ tiếp tục tăng mạnh từ đầu năm 2026, gây thêm sức ép cho các quốc gia xuất khẩu gỗ và đồ nội thất sang Mỹ, trong đó có Việt Nam.   ‏Chia sẻ với phóng viên Doanh nhân Việt Nam, ông Ngô Sỹ Hoài, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam, cho biết nguyên nhân là Washington viện dẫn Mục 232 của Đạo luật Thương mại 1974, cho rằng nhập khẩu gỗ và nội thất “đe dọa an ninh quốc gia”.‏  ‏Theo ông Hoài, lập luận này mâu thuẫn khi chuyển từ lý do “an ninh quốc gia” sang “bảo hộ ngành công nghiệp trong nước”. Động thái này lập tức gây lo ngại tại các quốc gia xuất khẩu lớn như Canada, Mexico và Việt Nam. “Hơn 9 tỷ USD sản phẩm gỗ Việt Nam nằm trong nhóm chịu thuế 25%, và việc tìm thị trường thay thế Mỹ trong ngắn hạn gần như bất khả thi”, ông Hoài cho hay.    Ông Ngô Sỹ Hoài, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam. Ảnh: Mai Trang.   Ông Hoài cho biết, Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam đã kiến nghị Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các Bộ Công Thương, Ngoại giao, Nông nghiệp và Môi trường khẩn trương đàm phán với phía Mỹ để đạt thỏa thuận cụ thể về thuế đối ứng. “Nếu đàm phán không thành công, mức thuế 50% và 30% sẽ tự động có hiệu lực từ ngày 1/1/2026, ảnh hưởng trực tiếp đến nhóm sản phẩm gỗ xuất khẩu chủ lực của Việt Nam”, ông cảnh báo.‏  ‏Trước đó, trong‏‏ phiên trao đổi trực tuyến giữa các hiệp hội ngành hàng gỗ, doanh nghiệp xuất khẩu đồ gỗ, và đại diện cơ quan thương vụ, đại sứ quán Việt Nam tại Mỹ tối ngày 2/10, ‏‏ông Phạm Quang Huy, Tham tán phụ trách Nông nghiệp, Đại sứ quán Việt Nam tại Mỹ, cho biết Tòa án Tối cao Mỹ đang xem xét tính hợp pháp của thuế 232, song ngay cả khi bị vô hiệu, chính quyền Trump vẫn có thể tiếp tục áp dụng công cụ thuế này. ‏  ‏Theo ông Trần Lê Huy, Phó Chủ tịch Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Bình Định, Mỹ phân loại các sản phẩm gỗ thành ba nhóm chính:‏   Ảnh: Mai Trang tổng hợp.   ‏Ngoài ra, ván ép (HS 4412) sẽ chịu thuế 20% từ 14/10/2025 – một thay đổi quan trọng vì trước đó mặt hàng này không nằm trong diện chịu thuế đối ứng. Một số doanh nghiệp cảnh báo phạm vi tăng thuế còn bao gồm sắt, thép – ảnh hưởng tới phụ kiện nội thất.‏  ‏Ông Đỗ Ngọc Hưng, Trưởng Cơ quan Thương vụ Việt Nam tại Mỹ, cho rằng việc Việt Nam bị áp thuế cao hơn EU, Nhật hay Anh bắt nguồn từ lo ngại doanh nghiệp Trung Quốc “lẩn tránh thuế” bằng cách chuyển sản xuất sang Việt Nam. ‏  ‏“Việt Nam và Mỹ đã nâng tầm quan hệ lên Đối tác chiến lược toàn diện, như quan hệ giữa Mỹ với EU, Nhật, Anh. Nhưng tại sao đồ nội thất gỗ bọc nệm hàng từ Anh chỉ chịu thuế 10%, từ EU và Nhật 0 – 15%, trong khi Việt Nam bị áp thuế cao? Lý do chính là lo ngại doanh nghiệp Trung Quốc lẩn tránh thuế bằng cách chuyển sản xuất sang các nước này”, ông Hưng đặt vấn đề.‏  ‏Doanh nghiệp gỗ cần đổi hướng: Mở rộng thị trường, chuyển sản phẩm lên phân khúc cao và tiếp cận vốn xanh‏ ‏Dù thách thức chồng chất, nhiều chuyên gia cho rằng đây cũng là cơ hội để ngành gỗ Việt Nam tái cấu trúc, nâng cao năng lực và củng cố vị thế bền vững trên thị trường toàn cầu, nơi ngành gỗ Việt Nam hiện đạt doanh thu 16 – 17 tỷ USD mỗi năm.‏  ‏Theo ông Ngô Sỹ Hoài, phía Mỹ vẫn để ngỏ khả năng đàm phán với từng quốc gia. Việt Nam có lợi thế cạnh tranh nhờ chi phí nhân công thấp và nguồn nguyên liệu chủ yếu từ gỗ rừng trồng như keo, cao su, cùng một phần gỗ nhập khẩu từ Mỹ như sồi, tần bì, dẻ gai, phong. “Việt Nam cũng là quốc gia tiêu thụ đáng kể gỗ Mỹ. Trong bối cảnh thương mại Mỹ – Trung căng thẳng, doanh nghiệp Việt Nam đã thể hiện thiện chí khi ưu tiên nhập khẩu gỗ tròn, gỗ xẻ từ Mỹ, giúp giảm thặng dư thương mại của Việt Nam với Mỹ,” ông nói. Ông cho biết thêm, lượng nhập khẩu gỗ từ Mỹ trong 9 tháng qua gần như tăng gấp đôi so với cùng kỳ năm trước, thể hiện cam kết hợp tác rõ ràng của doanh nghiệp Việt.   Thuế quan với ngành gỗ vẫn còn “mở” với nhiều cơ hội đàm phán. Ảnh: Mai Trang.   ‏Ông Hoài nhấn mạnh, trên nền tảng quan hệ đối tác chiến lược toàn diện, thương mại Mỹ – Việt được xem là mang tính bổ trợ, không mang tính cạnh tranh trực tiếp. “Mỹ vẫn được hưởng lợi đáng kể từ việc nhập khẩu, phân phối và tiêu thụ sản phẩm gỗ của Việt Nam. Nguồn cung đồ gỗ nội thất từ Việt Nam giúp người tiêu dùng Mỹ tiếp cận sản phẩm chất lượng tốt, giá hợp lý, đáng tin cậy, điều mà thị trường Mỹ khó có thể tìm được ở nguồn cung thay thế khác,” ông khẳng định.‏  ‏Tổng Thư ký Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam cho rằng ngành gỗ Việt Nam đang bước vào giai đoạn tái cấu trúc quan trọng sau thời gian dài đối mặt với áp lực thị trường và suy giảm đơn hàng. Để thích ứng, doanh nghiệp cần tập trung đồng bộ vào nhiều nhóm giải pháp, từ thị trường, sản phẩm cho đến tài chính và nhân lực.‏  ‏Theo ông Hoài, một trong những giải pháp then chốt là khơi thông và đa dạng hóa thị trường xuất khẩu. Các doanh nghiệp gỗ Việt Nam cần đẩy mạnh nghiên cứu, mở rộng sang những thị trường ngách, thị trường mới nổi hoặc có yêu cầu linh hoạt hơn về tiêu chuẩn. Song song, cần tận dụng các hiệp định thương mại tự do (FTA) để giảm phụ thuộc vào một số thị trường truyền thống như Mỹ hay EU.‏  ‏Bên cạnh đó, ông Hoài nhấn mạnh tái cơ cấu sản phẩm là hướng đi tất yếu. Doanh nghiệp không thể chỉ dựa vào các sản phẩm nội thất khối lượng lớn, giá trị gia tăng thấp mà cần chuyển hướng sang sản phẩm tinh xảo, thân thiện môi trường hoặc mang yếu tố thiết kế đặc trưng của Việt Nam. Điều này vừa đáp ứng xu hướng tiêu dùng xanh, vừa giúp nâng cao thương hiệu gỗ Việt trên thị trường quốc tế.‏  ‏Về tài chính, ông Hoài đề xuất tăng cường tiếp cận các nguồn vốn xanh và ưu đãi cho các dự án sản xuất bền vững. Chính phủ và các tổ chức tín dụng nên có chính sách hỗ trợ tín dụng dài hạn cho doanh nghiệp đầu tư công nghệ sạch, chứng chỉ rừng bền vững (FSC) và chuỗi cung ứng minh bạch.‏  ‏Ngoài ra, ông Hoài cũng cho rằng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là yếu tố không thể thiếu. Cần có sự phối hợp giữa các trường nghề, hiệp hội và doanh nghiệp để đào tạo đội ngũ thợ lành nghề, kỹ sư thiết kế và quản lý chuyên nghiệp, đủ năng lực đáp ứng yêu cầu sản xuất hiện đại và cạnh tranh quốc tế.‏  ‏Ông Hoài khẳng định, việc triển khai đồng bộ các giải pháp trên sẽ giúp ngành gỗ Việt Nam vượt qua giai đoạn khó khăn, hướng tới mô hình phát triển bền vững, tự chủ và có khả năng thích ứng cao trước những biến động của thị trường toàn cầu.
Mỹ mới đây đã tuyên bố áp thuế mới theo Mục 232 đối với các mặt hàng gỗ và nội thất nhập khẩu, với mức tăng kỷ lục lên tới 50% từ đầu năm 2026. Động thái này, theo các hiệp hội và doanh nghiệp trong ngành, có thể tác động trực tiếp đến hơn 9 tỷ USD sản phẩm gỗ xuất khẩu của Việt Nam, thị trường vốn phụ thuộc lớn vào Mỹ, đồng thời đặt ra yêu cầu cấp thiết về tái cấu trúc thị trường, sản phẩm và chiến lược phát triển bền vững. ‏‏‏‏Thuế 232 và tác động tới ngành gỗ xuất khẩu‏ ‏Ngày 30/9, ‏‏Mỹ‏‏ tuyên bố sẽ áp thuế 10% đối với gỗ và gỗ xẻ nhập khẩu, đồng thời áp thuế 25% đối với tủ bếp, tủ phòng tắm và đồ nội thất bọc nệm. Các mức thuế này có hiệu lực từ 14/10/2025 và sẽ tăng mạnh từ ngày 1/1/2026, trong đó thuế đối với đồ nội thất bọc có thể lên tới 30% và đối với tủ bếp, bàn trang điểm có thể tăng tới 50%. Những mức thuế mà Mỹ đưa ra cũng sẽ tiếp tục tăng mạnh từ đầu năm 2026, gây thêm sức ép cho các quốc gia xuất khẩu gỗ và đồ nội thất sang Mỹ, trong đó có Việt Nam. ‏Chia sẻ với phóng viên Doanh nhân Việt Nam, ông Ngô Sỹ Hoài, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam, cho biết nguyên nhân là Washington viện dẫn Mục 232 của Đạo luật Thương mại 1974, cho rằng nhập khẩu gỗ và nội thất “đe dọa an ninh quốc gia”.‏ ‏Theo ông Hoài, lập luận này mâu thuẫn khi chuyển từ lý do “an ninh quốc gia” sang “bảo hộ ngành công nghiệp trong nước”. Động thái này lập tức gây lo ngại tại các quốc gia xuất khẩu lớn như Canada, Mexico và Việt Nam. “Hơn 9 tỷ USD sản phẩm gỗ Việt Nam nằm trong nhóm chịu thuế 25%, và việc tìm thị trường thay thế Mỹ trong ngắn hạn gần như bất khả thi”, ông Hoài cho hay. Ông Ngô Sỹ Hoài, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam. Ảnh: Mai Trang. Ông Hoài cho biết, Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam đã kiến nghị Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các Bộ Công Thương, Ngoại giao, Nông nghiệp và Môi trường khẩn trương đàm phán với phía Mỹ để đạt thỏa thuận cụ thể về thuế đối ứng. “Nếu đàm phán không thành công, mức thuế 50% và 30% sẽ tự động có hiệu lực từ ngày 1/1/2026, ảnh hưởng trực tiếp đến nhóm sản phẩm gỗ xuất khẩu chủ lực của Việt Nam”, ông cảnh báo.‏ ‏Trước đó, trong‏‏ phiên trao đổi trực tuyến giữa các hiệp hội ngành hàng gỗ, doanh nghiệp xuất khẩu đồ gỗ, và đại diện cơ quan thương vụ, đại sứ quán Việt Nam tại Mỹ tối ngày 2/10, ‏‏ông Phạm Quang Huy, Tham tán phụ trách Nông nghiệp, Đại sứ quán Việt Nam tại Mỹ, cho biết Tòa án Tối cao Mỹ đang xem xét tính hợp pháp của thuế 232, song ngay cả khi bị vô hiệu, chính quyền Trump vẫn có thể tiếp tục áp dụng công cụ thuế này. ‏ ‏Theo ông Trần Lê Huy, Phó Chủ tịch Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Bình Định, Mỹ phân loại các sản phẩm gỗ thành ba nhóm chính:‏ Ảnh: Mai Trang tổng hợp. ‏Ngoài ra, ván ép (HS 4412) sẽ chịu thuế 20% từ 14/10/2025 – một thay đổi quan trọng vì trước đó mặt hàng này không nằm trong diện chịu thuế đối ứng. Một số doanh nghiệp cảnh báo phạm vi tăng thuế còn bao gồm sắt, thép – ảnh hưởng tới phụ kiện nội thất.‏ ‏Ông Đỗ Ngọc Hưng, Trưởng Cơ quan Thương vụ Việt Nam tại Mỹ, cho rằng việc Việt Nam bị áp thuế cao hơn EU, Nhật hay Anh bắt nguồn từ lo ngại doanh nghiệp Trung Quốc “lẩn tránh thuế” bằng cách chuyển sản xuất sang Việt Nam. ‏ ‏“Việt Nam và Mỹ đã nâng tầm quan hệ lên Đối tác chiến lược toàn diện, như quan hệ giữa Mỹ với EU, Nhật, Anh. Nhưng tại sao đồ nội thất gỗ bọc nệm hàng từ Anh chỉ chịu thuế 10%, từ EU và Nhật 0 – 15%, trong khi Việt Nam bị áp thuế cao? Lý do chính là lo ngại doanh nghiệp Trung Quốc lẩn tránh thuế bằng cách chuyển sản xuất sang các nước này”, ông Hưng đặt vấn đề.‏ ‏Doanh nghiệp gỗ cần đổi hướng: Mở rộng thị trường, chuyển sản phẩm lên phân khúc cao và tiếp cận vốn xanh‏ ‏Dù thách thức chồng chất, nhiều chuyên gia cho rằng đây cũng là cơ hội để ngành gỗ Việt Nam tái cấu trúc, nâng cao năng lực và củng cố vị thế bền vững trên thị trường toàn cầu, nơi ngành gỗ Việt Nam hiện đạt doanh thu 16 – 17 tỷ USD mỗi năm.‏ ‏Theo ông Ngô Sỹ Hoài, phía Mỹ vẫn để ngỏ khả năng đàm phán với từng quốc gia. Việt Nam có lợi thế cạnh tranh nhờ chi phí nhân công thấp và nguồn nguyên liệu chủ yếu từ gỗ rừng trồng như keo, cao su, cùng một phần gỗ nhập khẩu từ Mỹ như sồi, tần bì, dẻ gai, phong. “Việt Nam cũng là quốc gia tiêu thụ đáng kể gỗ Mỹ. Trong bối cảnh thương mại Mỹ – Trung căng thẳng, doanh nghiệp Việt Nam đã thể hiện thiện chí khi ưu tiên nhập khẩu gỗ tròn, gỗ xẻ từ Mỹ, giúp giảm thặng dư thương mại của Việt Nam với Mỹ,” ông nói. Ông cho biết thêm, lượng nhập khẩu gỗ từ Mỹ trong 9 tháng qua gần như tăng gấp đôi so với cùng kỳ năm trước, thể hiện cam kết hợp tác rõ ràng của doanh nghiệp Việt. Thuế quan với ngành gỗ vẫn còn “mở” với nhiều cơ hội đàm phán. Ảnh: Mai Trang. ‏Ông Hoài nhấn mạnh, trên nền tảng quan hệ đối tác chiến lược toàn diện, thương mại Mỹ – Việt được xem là mang tính bổ trợ, không mang tính cạnh tranh trực tiếp. “Mỹ vẫn được hưởng lợi đáng kể từ việc nhập khẩu, phân phối và tiêu thụ sản phẩm gỗ của Việt Nam. Nguồn cung đồ gỗ nội thất từ Việt Nam giúp người tiêu dùng Mỹ tiếp cận sản phẩm chất lượng tốt, giá hợp lý, đáng tin cậy, điều mà thị trường Mỹ khó có thể tìm được ở nguồn cung thay thế khác,” ông khẳng định.‏ ‏Tổng Thư ký Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam cho rằng ngành gỗ Việt Nam đang bước vào giai đoạn tái cấu trúc quan trọng sau thời gian dài đối mặt với áp lực thị trường và suy giảm đơn hàng. Để thích ứng, doanh nghiệp cần tập trung đồng bộ vào nhiều nhóm giải pháp, từ thị trường, sản phẩm cho đến tài chính và nhân lực.‏ ‏Theo ông Hoài, một trong những giải pháp then chốt là khơi thông và đa dạng hóa thị trường xuất khẩu. Các doanh nghiệp gỗ Việt Nam cần đẩy mạnh nghiên cứu, mở rộng sang những thị trường ngách, thị trường mới nổi hoặc có yêu cầu linh hoạt hơn về tiêu chuẩn. Song song, cần tận dụng các hiệp định thương mại tự do (FTA) để giảm phụ thuộc vào một số thị trường truyền thống như Mỹ hay EU.‏ ‏Bên cạnh đó, ông Hoài nhấn mạnh tái cơ cấu sản phẩm là hướng đi tất yếu. Doanh nghiệp không thể chỉ dựa vào các sản phẩm nội thất khối lượng lớn, giá trị gia tăng thấp mà cần chuyển hướng sang sản phẩm tinh xảo, thân thiện môi trường hoặc mang yếu tố thiết kế đặc trưng của Việt Nam. Điều này vừa đáp ứng xu hướng tiêu dùng xanh, vừa giúp nâng cao thương hiệu gỗ Việt trên thị trường quốc tế.‏ ‏Về tài chính, ông Hoài đề xuất tăng cường tiếp cận các nguồn vốn xanh và ưu đãi cho các dự án sản xuất bền vững. Chính phủ và các tổ chức tín dụng nên có chính sách hỗ trợ tín dụng dài hạn cho doanh nghiệp đầu tư công nghệ sạch, chứng chỉ rừng bền vững (FSC) và chuỗi cung ứng minh bạch.‏ ‏Ngoài ra, ông Hoài cũng cho rằng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là yếu tố không thể thiếu. Cần có sự phối hợp giữa các trường nghề, hiệp hội và doanh nghiệp để đào tạo đội ngũ thợ lành nghề, kỹ sư thiết kế và quản lý chuyên nghiệp, đủ năng lực đáp ứng yêu cầu sản xuất hiện đại và cạnh tranh quốc tế.‏ ‏Ông Hoài khẳng định, việc triển khai đồng bộ các giải pháp trên sẽ giúp ngành gỗ Việt Nam vượt qua giai đoạn khó khăn, hướng tới mô hình phát triển bền vững, tự chủ và có khả năng thích ứng cao trước những biến động của thị trường toàn cầu.
31/10/2025
Sức ép mới lên ngành gỗ xuất khẩu Việt Nam
Sức ép mới lên ngành gỗ xuất khẩu Việt Nam
31/10/2025