Tạp chí điện tử Doanh nhân Việt Nam trân trọng giới thiệu bài viết “Thực hành tiết kiệm” của đồng chí Tô Lâm – Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Tiết kiệm và chống lãng phí là hai thành tố gắn bó hữu cơ với nhau, là hai trụ cột để đi tới thịnh vượng, giàu có đối với cả phạm vi gia đình, đất nước và xã hội. Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí là điều cần làm trong cuộc sống của từng cá nhân và toàn xã hội, là “hòn đá tảng” góp phần xây dựng một xã hội văn minh, phát triển bền vững. Đó phải là trách nhiệm chung và cần trở thành nếp sống, thành văn hóa hàng ngày của mỗi chúng ta. Tổng Bí thư Tô Lâm. Ảnh VGP. Văn hoá Việt Nam là nền văn hoá gắn liền với sự đề cao lối sống tiết kiệm, giản dị. Từ đó, việc thực hành tiết kiệm của người Việt đã được đúc kết thành ca dao, tục ngữ, truyền miệng từ đời này sang đời khác[1], như “Khéo ăn thì no, khéo co thì ấm”, “Ít chắt chiu hơn nhiều phung phí” , “Ai ơi chớ bỏ ruộng hoang/Bao nhiêu tấc đất tấc vàng bấy nhiêu”; “Được mùa chớ phụ ngô khoai/Đến khi thất bát lấy ai bạn cùng”; “nên ăn có chừng, nên dùng có mực”; “Tiết kiệm sẵn có đồng tiền/Phòng khi túng lỡ không phiền lụy ai”… Chủ tịch Hồ Chí Minh – người Thầy của cách mạng Việt Nam là tấm gương sáng về thực hành tiết kiệm. Ngay sau khi lãnh đạo Cách mạng tháng Tám thành công, trước nguy cơ giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm đe dọa, tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa diễn ra ngày 03/09/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra 6 vấn đề cấp bách, trong đó Người đặc biệt đề cao việc phát động phong trào tăng gia tiết kiệm để chống đói, xây dựng đất nước. Bác Hồ đã nhiều lần giải thích rõ về tiết kiệm để mọi người hiểu cho đúng, để thực hiện cho tốt: “Kiệm là thế nào? Là tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi…; Tiết kiệm không phải là bủn xỉn. Khi không nên tiêu xài thì một đồng xu cũng không nên tiêu. Khi có việc đáng làm, việc ích lợi cho đồng bào, cho Tổ quốc, thì dù bao nhiêu công, tốn bao nhiêu của, cũng vui lòng. Như thế mới đúng là kiệm. Tiết kiệm phải kiên quyết chống xa xỉ… Vì vậy, xa xỉ có tội với tổ quốc, với đồng bào”[2]. Bác coi tiết kiệm là một nghệ thuật quan trọng của đời sống xã hội. Bác nhấn mạnh phải tiết kiệm sức lao động: “một người làm bằng hai, ba người”[3]; tiết kiệm thời gian: “Làm việc phải đến đúng giờ, chớ đến trễ, về sớm. Làm cho chóng, cho chu đáo. Việc ngày nào, nên làm xong ngày ấy, chớ để chờ ngày mai. Phải nhớ rằng: Dân đã lấy tiền mồ hôi nước mắt để trả lương cho ta trong những thì giờ đó. Ai lười biếng tức là lừa gạt dân”[4]. Bác yêu cầu Chính phủ phải tiết kiệm tiền của, tiết kiệm sức dân, tiết kiệm xương máu của bộ đội, chiến sỹ và nhân dân: “phải biết quý trọng sức người là vốn quý nhất của ta. Chúng ta cần hết lòng chăm sóc sức khỏe và sử dụng thật hợp lý sức lao động của nhân dân ta”[5], “Của cải hết, có thể lại làm ra; thời giờ qua, thời giờ lại đến. Nhưng bộ đội hy sinh là hy sinh xương máu, có khi hy sinh cả tính mệnh”[6] nên “phải giữ gìn từng giọt máu của đồng bào để xây đắp tương lai của Tổ quốc” [7]. Hay, tiết kiệm lời nói: “nói ít, làm nhiều”[8], “bắt đầu bằng hành động”[9]. Trong các giai đoạn cách mạng, Đảng, Nhà nước ta đặc biệt quan tâm vấn đề thực hành tiết kiệm, coi đây là quốc sách hàng đầu. Trong chiến tranh, dưới sự lãnh đạo của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh, với sự đi đầu nêu gương của Bác, của cán bộ, đảng viên, việc chi tiêu hợp lý, thực hành tiết kiệm, mỗi người dân đều thắt lưng buộc bụng, nhịn ăn, nhịn mặc, hi sinh mọi quyền lợi vật chất cá nhân để dồn sức cho tiền tuyến, giúp tập trung nguồn lực giải phóng đất nước. Bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã có nhiều chủ trương, ban hành nhiều Chỉ thị về vấn đề này, như Chỉ thị số 21-CT/TW, ngày 21/12/2012 của Ban Bí thư khóa XI về việc đẩy mạnh thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; Chỉ thị số 27-CT/TW, ngày 25/12/2023 của Bộ Chính trị khóa XIII về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; Chỉ thị số 42-CT/TW ngày 16/01/2025 của Bộ Chính trị khoá XIII về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh xác định rõ “Tổ chức học tập, quán triệt và tuyên truyền sâu rộng… các quan điểm và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về:…. cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”; Quy định số 37-QĐ/TW, ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được làm, không cho phép đảng viên “Tổ chức việc cưới, việc tang và các sự kiện khác của cá nhân, gia đình xa hoa, lãng phí hoặc nhằm mục đích vụ lợi”. Thể chế hoá chủ trương của Đảng, Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa X đã ban hành Pháp lệnh về việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí năm 1998; được Quốc hội khóa XI nâng lên thành Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí năm 2005 và được Quốc hội khóa XIII sửa đổi, bổ sung ban hành Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí năm 2013; Hiến pháp năm 2013 cũng hiến định “Cơ quan, tổ chức, cá nhân phải thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, phòng, chống tham nhũng trong hoạt động kinh tế – xã hội và quản lý nhà nước” (Điều 56); hàng năm và theo giai đoạn, Chính phủ đều ban hành Chương trình tổng thể về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, thực hành tiết kiệm trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Các tổ chức, cá nhân, nhất là cán bộ, đảng viên đã chú trọng thực hiện tiết kiệm chi thường xuyên, nâng cao vai trò của người đứng đầu trong thực hành tiết kiệm. Một số cơ quan, đơn vị khi tổ chức đại hội hay các dịp kỷ niệm ngày thành lập đã có văn bản thông báo “thực hành tiết kiệm, không nhận hoa chúc mừng”. Nhiều hội nghị sơ kết, tổng kết đã được các cấp, các ngành tổ chức theo hướng ngắn gọn, đơn giản, tiết kiệm thời gian, không sử dụng tài liệu giấy, tổ chức họp trực tuyến để tiết kiệm chi phí. Việc sử dụng xe chung cho cán bộ cấp cao trong các chuyến công tác cũng được triển khai ở nhiều nơi. Tình trạng đất bị bỏ hoang, quy hoạch “treo” từng bước được khắc phục. Quản lý, sử dụng trụ sở làm việc cơ bản đã thực hiện đúng mục đích và định mức, tiêu chuẩn. Nhiều doanh nghiệp tăng cường quản lý các định mức liên quan đến chi phí sản xuất, nhất là các chi phí gián tiếp để hạ giá thành sản phẩm; cắt giảm chi phí sản xuất kinh doanh, tăng cường quản lý định mức tiêu hao để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Đặc biệt, từ cuối năm 2024 đến nay, thực hiện các kết luận của Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã lãnh đạo, chỉ đạo cơ bản hoàn thành việc sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy các cơ quan Đảng, Chính phủ, Quốc hội, Mặt trận tổ quốc ở cấp Trung ương và địa phương; qua đó tinh giảm đầu mối, tiết kiệm chi phí, tạo điều kiện để thực hiện ngay chủ trương miễn giảm học phí cho học sinh. Ngoài ra, theo tính toán sơ bộ, khi thực hiện chủ trương mà Hội nghị Trung ương 11 khoá XIII đã thống nhất về sáp nhập tỉnh, không tổ chức cấp huyện và sáp nhập cấp xã, riêng khoản tiết kiệm chi thường xuyên của Ngân sách nhà nước giai đoạn 2025-2030 là hơn 20.000 tỷ đồng/năm; giai đoạn 2030 trở đi mỗi năm tiết kiệm trên 30.000 tỷ đồng. Đó là chúng ta chưa tính giá trị cụ thể của hơn 18.500 trụ sở các cơ quan, đơn vị không còn chức năng “công sở” khi triển khai mô hình chính quyền địa phương hai cấp. Bên cạnh kết quả, việc thực hành tiết kiệm vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế, đạt hiệu quả rất thấp. Các chủ trương, chính sách tiết kiệm chưa thật sự phát huy hiệu quả; sự lãng phí, thất thoát tài sản, ngân sách Nhà nước đã và đang diễn ra trên phạm vi rộng gây nhiều hệ luỵ nghiêm trọng. Thực hành tiết kiệm chưa thành nề nếp thường xuyên; tiết kiệm chưa trở thành ý thức thường trực của một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và nhân dân. Lãng phí không chỉ tồn tại ở các cơ quan Nhà nước mà ngay trong hoạt động xã hội của người dân. Xu hướng sính dùng hàng ngoại, hàng xa xỉ, hàng hiệu, tặng quà biếu với giá trị lớn; tâm lý hưởng thụ của một bộ phận người dân, nhất là lớp trẻ, trong khi thu nhập bình quân của cả nước mới vượt qua ngưỡng thu nhập trung bình, năng suất lao động thấp… là những biểu hiện đáng lo ngại của việc thực hành tiết kiệm. Bên cạnh những cán bộ, đảng viên luôn nêu cao tính đảng, gương mẫu, đi đầu trong thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, có tinh thần trách nhiệm cao trong quản lý, sử dụng, tiết kiệm tài sản công, không rơi vào “vòng xoáy” của quyền lực, tiền tài, xa hoa, hưởng thụ… vẫn còn một bộ phận không ít cán bộ, đảng viên, trong đó có cả người đứng đầu, thiếu tinh thần trách nhiệm, thích hưởng thụ, thích vật chất, gây thất thoát kinh phí, tài sản, lãng phí trong tiêu dùng, sự dụng công quĩ cho chi tiêu cá nhân, nhóm lợi ích. Nguyên nhân chủ yếu của những tồn tại, hạn chế nêu trên là do ý thức trách nhiệm, sự quyết tâm của một số cơ quan, tổ chức và cá nhân chưa cao, chưa thường xuyên, thiếu quyết liệt, cơ chế chính sách, nội quy, quy định chưa đầy đủ, rõ ràng, nhiều kẽ hở. Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí có lúc, có nơi còn hình thức, chiếu lệ. Một số bộ, ngành, địa phương chưa thực sự tự giác trong việc xây dựng các giải pháp để triển khai việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong lĩnh vực, phạm vi được giao quản lý. Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí chưa thật sự đi vào thực tiễn cuộc sống, các quy định còn chung chung, dẫn đến chưa có cơ chế, biện pháp hiệu quả trong triển khai. Chương trình thực hành tiết kiệm, chống lãng phí còn mang tính hình thức, chưa đi vào thực tế cuộc sống của mỗi cơ quan, đơn vị, địa phương, mỗi gia đình và từng cá nhân, chưa đưa ra được các mục tiêu, chỉ tiêu, tiêu chí đánh giá cụ thể. Nhiều lãng phí, sai phạm đã được phát hiện nhưng chậm được xử lý; chưa kịp thời tuyên dương, khen thưởng người thực hiện tiết kiệm hoặc phát hiện lãng phí khiến việc tuân thủ pháp luật chưa nghiêm. Công tác thanh tra, kiểm tra về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí tại các cấp các ngành hiệu quả chưa cao. Hội nghị Trung ương 11 khoá XIII đã thống nhất rất cao những quyết sách lịch sử, trong đó, tiếp tục sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, sáp nhập một số tỉnh, không tổ chức cấp huyện, sáp nhập xã, tạo tiền đề tạo chuyển biến căn bản trong thực hành tiết kiệm ở nước ta trong giai đoạn mới. Để đạt yêu cầu cao nhất trong giai đoạn cách mạng mới mà Hội nghị Trung ương 11 đã thống nhất, đó là “phát triển chất lượng cao, phát triển nhanh và phát triển bền vững”,”chủ động, tự cường và tự chủ trong phát triển” nhằm đạt mục tiêu cao nhất “ổn định, phát triển và nâng cao đời sống của nhân dân”, thực hiện thắng lợi hai mục tiêu 100 năm, cùng với sắp xếp tổ chức bộ máy tinh, gọn, mạnh, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, cần tập trung thực hiện tốt một số vấn đề, sau đây: Thứ nhất, thống nhất nhận thức, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí là một trong những giải pháp căn cơ nhất để đất nước vượt qua mọi bão giông trong bối cảnh tình hình quốc tế có nhiều biến động, tác động trực tiếp, nhiều mặt đến phát triển kinh tế – xã hội và bảo đảm an sinh. Thực tế lịch sử đã chứng minh, tiết kiệm là một trong những yếu tố then chốt tạo ra tiềm lực to lớn để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, dù là một đất nước nghèo nàn về kinh tế, cuộc sống vật chất của người dân khó khăn, thậm chí trong hoàn cảnh “giặc đói” hoành hành, nhưng chúng ta vẫn “thắt lưng buộc bụng”, dồn sức cho kháng chiến, dành cơm gạo cho chiến trường và đã đánh thắng bọn thực dân, đế quốc xâm lược hùng mạnh, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Trước những khó khăn, thách thức mới, với truyền thống kiên cường, bất khuất, với sự đồng tâm hiệp lực của cả hệ thống chính trị, toàn dân, phát huy cao độ việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, sẽ tạo nguồn sức mạnh nội sinh, nội lực to lớn thúc đẩy sự phát triển bền vững của nền kinh tế, giúp đất nước vững vàng tiến lên, đạt các mục tiêu chiến lược, đồng thời chăm lo tốt hơn cho đời sống người dân. Do vậy, mọi công dân và các cơ quan, đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp cần có kế hoạch cụ thể, thực hiện thu-chi hợp lý; cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý phải gương mẫu, vận động gia đình, nhân dân tích cực tham gia; mọi ngành, mọi nghề, mọi nhà, mọi người đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả lao động sản xuất, triệt để thực hành tiết kiệm, hạn chế tới mức thấp nhất sự lãng phí cả về thời gian, tiền bạc, của cải, sức lực. Thứ hai, triển khai mạnh mẽ các giải pháp căn bản nhằm tạo chuyển biến thực chất trong thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Trọng tâm là: (i) Tập trung hoàn thiện thể chế, tạo cơ sở khắc phục triệt để những lãng phí do thể chế gây ra, xóa bỏ những rào cản, khó khăn, vướng mắc cản trở phát triển, khơi thông các điểm nghẽn tạo nền tảng cho phát triển, nhất là các vấn đề liên quan đến đấu thầu, ngân sách, đầu tư công, kinh tế tư nhân, khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và cuộc Cách mạng về sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị. Sớm nghiên cứu, sửa đổi bổ sung Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, tạo cơ sở chính trị pháp lý toàn diện, vững chắc cho thực hành tiết kiệm ở mọi ngành, mọi nghề, mọi cán bộ, đảng viên và người dân. (ii) Cắt giảm tối đa thủ tục hành chính, chi phí tuân thủ, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân và doanh nghiệp; chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm, xóa bỏ cơ chế “xin-cho”; phân cấp, phân quyền cho cơ quan, địa phương có thẩm quyền giải quyết và chịu trách nhiệm. Trong năm 2025, đảm bảo 100% thủ tục hành chính liên quan đến doanh nghiệp được thực hiện trực tuyến, thông suốt, hiệu quả; 100% thủ tục hành chính không bị giới hạn bởi địa giới hành chính cấp tỉnh. (iii) Sau khi sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh, gọn, mạnh, muốn hoạt động hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, yếu tố rất căn cốt đó là phải tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ có kiến thức, kĩ năng, thái độ làm việc đúng đắn để đạt hiệu quả cao nhất ở mỗi lĩnh vực mà họ đảm trách. Trong đó, kĩ năng quản lý, thực thi nhiệm vụ; sự say mê, nhiệt huyết và trách nhiệm trong mỗi công việc, mỗi nhiệm vụ được giao; văn hoá chuẩn mực trong giao tiếp, ứng xử, ý thức chủ động tiết kiệm… là những yêu cầu đặt ra đối với cán bộ trong tổ chức bộ máy mới. (iv) Siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong quản lý, sử dụng tài chính, ngân sách; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, sử dụng hiệu quả các nguồn lực tài chính nhà nước gắn với huy động các nguồn lực xã hội và sắp xếp, tinh gọn bộ máy. Tăng cường quản lý, sử dụng tài sản công, đảm bảo đúng tiêu chuẩn, định mức, chế độ và phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ, tập trung vào việc sắp xếp, xử lý tài sản, đặc biệt là nhà, đất gắn với việc sắp xếp, tổ chức tinh gọn bộ máy. Kiên quyết triệt để tiết kiệm các khoản chi chưa thực sự cần thiết để bảo đảm nguồn lực cho phòng, chống thiên tai, dịch bệnh, bổ sung vốn đầu tư phát triển và phát triển kinh tế; phấn đấu tăng cao hơn nữa tỷ lệ chi đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia, hỗ trợ kinh tế tư nhân phát triển. (v) Tạo hành lang pháp lý, nguồn lực để kinh tế tư nhân phát triển, thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo trong toàn xã hội, tạo điều kiện để mọi người dân đều có cơ hội đóng góp, tăng năng suất lao động, làm giàu cho bản thân, gia đình và xã hội. Thứ ba, xây dựng văn hoá tiết kiệm; đưa thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trở thành “tự giác”, “tự nguyện”, “cơm ăn nước uống, áo mặc hàng ngày”. Nghiên cứu phát động và duy trì thường niên “Ngày toàn dân thực hành tiết kiệm” để thúc đẩy, lan tỏa phong trào toàn xã hội nêu cao ý thức thực hành tiết kiệm. Đẩy mạnh cuộc vận động “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”; kịp thời khen thưởng, biểu dương những tấm gương cán bộ, chiến sỹ, người dân có những sáng kiến trong công tác, phát triển kinh tế mang lại hiệu quả thiết thực trong thực hành tiết kiệm, có hình thức xử lý nghiêm đối với những tập thể, cá nhân, trước hết là người đứng đầu các cơ quan, đơn vị trong hệ thống chính trị, đảng viên chưa thực hiện đầy đủ Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, lấy đây là một trong những giải pháp căn cơ góp phần xây dựng văn hoá tiết kiệm. Trong Báo cáo trước Đại hội lần thứ IV của Quốc tế Cộng sản, V.I. Lênin nhấn mạnh “Dù sao, chúng tôi cũng phải tinh giản bộ máy nhà nước đó, phải hết sức tiết kiệm, càng nhiều càng tốt. Chúng tôi tiết kiệm về mọi mặt, đến cả những chi phí về trường học. Phải làm như thế vì chúng tôi biết rằng, nếu không cứu vãn được công nghiệp nặng, nếu không khôi phục được công nghiệp nặng, thì chúng tôi sẽ không thể xây dựng được công nghiệp nào cả, và nếu không có công nghiệp, thì nói chung, chúng tôi sẽ diệt vong, không còn là một nước độc lập nữa”[10]; Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu nhấn mạnh “Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, tiết kiệm là một chính sách lớn, một đạo đức lớn, một nếp làm việc và nếp sống không bao giờ được lơ là”[11]; để đưa đất nước vững bước vào kỷ nguyên mới và thành công, nhất định toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phải ra sức thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. [1] Xem thêm: Vũ Ngọc Phan, Tục ngữ ca dao, dân ca Việt Nam, NXB Văn học, 1996; Phúc Hải, Tuyển chọn tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam, NXB Thời đại, 2014; Mai Khanh, Thành ngữ – tục ngữ, ca dao – dân ca Việt Nam, NXB Văn học, 2022… [2] Sđd, Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6, tr.122-124 [3] Sđd, Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, tr.181 [4] Sđd, Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, tr.122 [5] Sđd, Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 13, tr.70 [6] Sđd, Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 7, tr.335 [7] Sđd, tập 4, Hồ Chí Minh, Toàn tập, tr.229 [8] Sđd, tập 5, Hồ Chí Minh, Toàn tập, tr.217 [9] Sđd, tập 3, Hồ Chí Minh, Toàn tập, tr.457 [10] Sđd, V.I. Lênin, Toàn tập, NXB CTQG-ST, H.2005, tập 45, tr.333-334 [11] Báo Nhân dân, số 2149 ngày 05/2/1950, tr.2

Việc mở cửa cho các công ty tư nhân, tham gia vào dự án không chỉ giảm áp lực lên ngân sách nhà nước mà còn mang lại sự đổi mới về công nghệ và quản lý. Tuy nhiên, lựa chọn nhà đầu tư nào lại là câu hỏi lớn dành cho nhà quản lý dựa vào tính khả thi của các đề xuất.

Đường sắt cao tốc Bắc – Nam là một trong những dự án hạ tầng giao thông trọng điểm của Việt Nam, với tổng mức đầu tư sơ bộ khoảng 67,34 tỷ USD (ước tính chiếm khoảng 10% GDP tại năm 2027), tổng chiều dài tuyến khoảng 1.541 km, đi qua 20 tỉnh thành,…

Quy mô đầu tư của dự án là đường đôi khổ 1435 mm, điện khí hoá với tốc độ thiết kế 350 km/h, tải trọng trục 22,5 tấn/trục, bố trí 23 ga khách, 5 ga hàng hoá, 5 depot tàu khách và 45 trạm bảo dưỡng; công suất dự án đáp ứng khoảng 133,5 triệu hành khách/năm (đối với tàu suốt Bắc-Nam) và khoảng 106,8 triệu khách (đối với tàu khách khu đoạn).

Để đảm bảo tính khả thi và đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự kiến hoàn thành vào năm 2035, dự án cần được áp dụng cơ chế đầu tư đặc thù về vốn, thiết kế, giải phóng mặt bằng và nguồn nguyên liệu chính phục vụ dự án, từ đó, giúp so sánh kết quả dự án khi có và không có các cơ chế đặc thù này.

Nguồn lực tài chính

Với dự án có quy mô lớn, phân kỳ và rủi ro đội vốn cao như Đường sắt cao tốc Bắc – Nam, nhu cầu vốn phát sinh lớn trong cả giai đoạn đầu tư và vận hành.

Trong giai đoạn đầu tư, trong sơ bộ tổng mức đầu tư 67,34 tỷ USD có chi phí bồi thường, hỗ trợ và tái định cư 5,9 tỷ USD, chi phí xây dựng 33,2 tỷ USD, chi phí thiết bị 11 tỷ USD, chi phí quản lý dự án và chi phí tư vấn khoảng 4,3 tỷ USD, chi phí khác 0,9 tỷ USD và chi phí dự phòng khoảng 11,8 tỷ USD.

Ngoài ra, trong giai đoạn vận hành, chi phí tái đầu tư nhằm duy trì tuyến đường sắt là rất lớn bên cạnh các chi phí vận hành khác.

Để đáp ứng nhu cầu vốn nói trên, bên cạnh các phương án triển khai theo hình thức đầu tư công dự án này hoàn toàn có thể được triển khai theo phương thức PPP hoặc được triển khai bởi các doanh nghiệp tư nhân.

TS. Trần Huy Tùng, Trưởng bộ môn Kinh tế đầu tư Khoa Kinh tế, Học viện Ngân hàng. (Ảnh: NVCC).

Trong đó, nếu triển khai theo phương thức hợp tác công tư PPP – mô hình BOT (xây dựng – vận hành – chuyển giao) và BT (đổi đất lấy hạ tầng), đặc biệt tại các khu vực nhà ga để khai thác quỹ đất theo mô hình phát triển đô thị dựa trên giao thông công cộng (TOD).

Để thực hiện điều này, các địa phương được yêu cầu lập và phê duyệt các dự án khai thác quỹ đất theo mô hình TOD tại các nhà ga, đấu giá đất để tạo nguồn lực tài chính tái đầu tư cho dự án. Nguồn thu này sẽ được sử dụng để phát triển đô thị và bổ sung ngân sách trung ương/địa phương. Quỹ đất vùng phụ cận các ga (cự ly trung bình 50-70 km) có thể được khai thác để xây dựng khu dịch vụ, thương mại, hoặc khu đô thị mới, tạo giá trị gia tăng kinh tế. 

Còn đối với phương án triển khai bởi doanh nghiệp tư nhân, đã có hai doanh nghiệp lớn đề xuất được làm chủ đầu tư thực hiện dự án đường sắt cao tốc Bắc – Nam Vinspeed và Thaco.

Việc mở cửa cho các công ty tư nhân, tham gia vào dự án không chỉ giảm áp lực lên ngân sách nhà nước mà còn mang lại sự đổi mới về công nghệ và quản lý. Tuy nhiên, lựa chọn nhà đầu tư nào lại là câu hỏi lớn dành cho nhà quản lý dựa vào tính khả thi của các đề xuất.

So sánh đề xuất từ Vinspeed và Thaco

Tiêu chí

Vinspeed

Thaco

Tổng mức đầu tư

61,27 tỷ USD

61,35 tỷ USD

Vốn tự có (20%)

12,25 tỷ USD

12,27 tỷ USD

Nguồn vốn còn lại (80%)

Vay từ Nhà nước 0% trong 35 năm (Nhà nước tự huy động khoảng 49 tỷ USD bằng các nguồn khác nhau)

Tự huy động từ các tổ chức trong và ngoài nước. Nhà nước bảo lãnh vay vốn và hỗ trợ trả toàn bộ lãi suất trong 30 năm.

Thời gian thực hiện dự án

5 năm (1 giai đoạn)

7 năm (2 giai đoạn)

Thời gian vận hành

99 năm

70 năm

Công nghệ

Không công khai

Hợp tác với Đức, Nhật, Hàn Quốc, Pháp, nhận chuyển giao tiến tới làm chủ công nghệ. Hợp tác với các doanh nghiệp có thế mạnh ở các lĩnh vực trong nước nhằm thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp nặng.

Kinh nghiệm

Chưa có kinh nghiệm nhưng là một doanh nghiệp thuộc hệ sinh thái của Vingroup với kinh nghiệm trong phát triển các dự án có quy mô lớn, đa ngành

Phát triển các ngành công nghiệp nặng như luyện kim, cơ khí.

Phát triển khu kinh tế Chu Lai.

Cơ chế ưu đãi

đề xuất

Được giao quỹ đất dọc tuyến đường sắt để phát triển bất động sản

Được ưu tiên giao quỹ đất xung quanh nhà ga để phát triển bất động sản

Giá vé

Khoảng 60-70% giá trần của vé máy bay

Do Nhà nước phê duyệt dựa trên cơ sở đảm bảo tài chính và thời gian hoàn vốn cho doanh nghiệp

Cam kết khác

Không công khai

Cam kết không bán, chuyển nhượng cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài.

Sẵn sàng chuyển giao cho Nhà nước khi cần sử dụng cho các mục tiêu khẩn cấp, an ninh – quốc phòng

(Nguồn: Tác giả tự tổng hợp).

Điểm qua các tiêu mà hai nhà đầu tư này đề xuất đối với dự án đường sắt cao tốc Bắc – Nam, có thể thấy ở tiêu chí đầu tiên tổng mức đầu tư mà hai đơn vị Vinspeed và Thaco đề xuất tương đương nhau, khoảng 61 tỷ USD.

Tuy nhiên, về cơ cấu nguồn vốn, Vinspeed có khả năng sẽ dễ dàng huy động vốn tự có hơn nhờ hệ sinh thái các công ty trong họ Vin đã niêm yết trên sàn chứng khoán, trái lại, Thaco chưa niêm yết nên sẽ khó huy động hơn.

Mặc dù vậy, khả năng huy động vốn 20% của Vinspeed hiện cũng đối diện với các thách thức khi công ty Vinspeed dự kiến dùng 20% vốn tự có – khoảng 14 tỷ USD – gấp 2 lần vốn chủ sở hữu của Vingroup.

Để huy động được số tiền với mức lãi suất thấp là không dễ trong bối cảnh hệ số nợ trên vốn chủ sở hữu cao hơn 4 lần. Do đó, nếu có cơ chế đặc thù thì cần bổ sung cơ chế bảo lãnh của Chính phủ cho Vinspeed khi huy động.

Điều này khá tương đồng với trường hợp của Thaco khi đề xuất tự huy động khoảng 80% vốn đầu tư còn lại từ các tổ chức trong và ngoài nước. Chính phủ vẫn sẽ phải phát hành bảo lãnh vay cho doanh nghiệp. Nếu vay nước ngoài thì có thể ảnh hưởng tới mức vay chung của quốc gia. Do đó, kế hoạch huy động và hoàn trả cần làm rõ để báo cáo Bộ Tài chính.

Tiêu chí thứ hai là về kinh nghiệm và quản lý dự án, Vinspeed là một doanh nghiệp thuộc hệ sinh thái của Vingroup vốn nổi tiếng với việc triển khai các dự án lớn với tiến độ nhanh và chất lượng cao như Nhà máy ô tô Vinfast, các dự án bất động sản, Đại học Vinuni….

Trong khi đó, Thaco chỉ có kinh nghiệm liên quan tới một phần của ngành công nghiệp đường sắt như đường ray, đầu máy, toa xe…Điều này chưa chắc đảm bảo sự thành công chung của một siêu dự án khi phụ thuộc không chỉ vào kỹ thuật mà còn là tính khả thi trong kinh doanh, vận hành dự án này.

Cam kết tiến độ thực hiện dự án trong 5 năm của Vinspeed cũng cho thấy lợi thế cạnh tranh lớn của doanh nghiệp này so với Thaco. Về lợi ích chung, việc nhanh chóng hoàn thành dự án đường sắt cao tốc Bắc – Nam mang lại nhiều lợi ích khác, từ đó thu hút đầu tư, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Tuy nhiên, với tiêu chí cơ chế ưu đãi đề xuất, Vinspeed đề nghị được giao quỹ đất dọc tuyến đường sắt để phát triển bất động sản, trái lại, Thaco chỉ đề nghị được ưu tiên giao quỹ đất. Như vậy có thể thấy Vinspeed muốn nhận được sự độc quyền trong phát triển các dự án bất động sản dọc theo tuyến đường.

Với dự án hạ tầng như đường sắt cao tốc thì khả năng lỗ rất lớn và kéo dài trong nhiều năm, các doanh nghiệp tư nhân chỉ có thể tham gia khi được đổi lấy quyền lợi khác đủ bù đắp cho họ. Theo đề xuất về cơ chế ưu đãi, có vẻ Thaco đang tốt hơn Vinspeed, nhưng xét trên bình diện tổng thể, dự án đường sắt thành công đến từ lưu lượng khách sử dụng dịch vụ.

Mà lưu lượng này lại ngoài phụ thuộc vào chất lượng dịch vụ của đường sắt còn phụ thuộc lớn vào sự phát triển của các vùng nơi đường sắt đi qua. Với kinh nghiệm trong phát triển các đô thị lớn của mình, Vingroup đang có lợi thế lớn để đáp ứng các yếu tố này.

Yếu tố cuối cùng và cũng là quan trọng không kém đó chính là công nghệ, tiêu chí này Thaco tỏ ra có lợi thế hơn Vinspeed nhờ kinh nghiệm trong lĩnh vực công nghiệp nặng như cơ khí, luyện kim. Bên cạnh đó, sự cam kết về tự chủ công nghệ, thúc đẩy sự phát triển các doanh nghiệp trong nước cùng ngành cũng là điểm cộng trong đề xuất của Thaco.

Tiêu chí này rất quan trọng bởi lựa chọn công nghệ trong ngành đường sắt không chỉ liên quan tới sự an toàn mà còn là trải nghiệm sử dụng dịch vụ của hành khách.

Cơ chế đặc thù từ thiết kế đến GPMB

Dù lựa chọn phương thức đầu tư hay nhà đầu tư dự án nào thì với siêu dự án như đường sắt cao tốc Bắc – Nam chắc chắn cũng cần đi kèm với nhưng cơ chế đầu tư đặc thù.

Về thiết kế, Nhà nước cho phép áp dụng cơ chế FEED (Front-End Engineering Design) thay thế cho các bước thiết kế truyền thống. Thiết kế FEED (viết tắt của từ Front – End Engineering Design) có nghĩa là thiết kế kỹ thuật tổng thể – nghĩa là lập kế hoạch chi tiết luôn ở giai đoạn đầu.

FEED là một quy trình thiết kế kỹ thuật chi tiết hơn, được thực hiện trước khi bắt đầu giai đoạn thi công, nhằm tối ưu hóa kế hoạch và giảm thiểu rủi ro. Nhược điểm của thiết kế FEED có thể kéo dài và yêu cầu một lực lượng nhân lực thiết kế có chuyên môn cao. Hiện nay, cơ chế khuyến khích phát triển nguồn nhân lực cho dự án đường sắt đã được quan tâm. Theo đó, tổ chức, cá nhân tham gia đào tạo phát triển nguồn nhân lực công nghệ cao phục vụ dự án được hưởng các chính sách ưu đãi theo quy định của pháp luật về công nghệ cao. Kết hợp cùng các cơ chế phân quyền, rút gọn thủ tục đầu tư khác, và áp dụng thiết kế FEED giúp đẩy nhanh tiến độ từ lập báo cáo khả thi (2025-2026) đến khởi công (2027) và hoàn thành (2035).

Về giải phóng mặt bằng và quản lý đất đai, Dự án đường sắt cao tốc Bắc – Nam yêu cầu thu hồi khoảng 10.827 ha đất, ảnh hưởng đến khoảng 30.000 hộ gia đình. 

Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, Trung Quốc sử dụng cơ chế “đặc khu” để ưu tiên giải phóng mặt bằng, bao gồm phân bổ ngân sách tập trung và thành lập các nhóm công tác liên ngành. Kết quả, tuyến Bắc Kinh – Thượng Hải hoàn thành giải phóng mặt bằng cho 1.318 km trong 2 năm, nhờ cơ chế đền bù nhanh và tái định cư hiệu quả.

Tại Nhật Bản, hệ thống Shinkansen áp dụng chính sách đền bù công bằng, kết hợp với hỗ trợ tái định cư bằng nhà ở xã hội và việc làm. Điều này giúp giảm kháng cự từ cộng đồng và hoàn thành giải phóng mặt bằng trong 1-2 năm cho mỗi đoạn tuyến.

Do đó, Việt Nam cần cách ưu tiên ngân sách cho đền bù, đơn giản hóa thủ tục pháp lý, và xây dựng các khu tái định cư hiện đại. Hiện nay, cơ chế đặc thù dự kiến là các địa phương được giao trách nhiệm hoàn thành giải phóng mặt bằng trước tháng 12/2026, với cơ chế đặc thù về bồi thường, hỗ trợ tái định cư, và khai thác quỹ đất.

Theo đó, Chính phủ đề xuất chính sách rút gọn thủ tục giải phóng mặt bằng, ưu tiên sử dụng quỹ đất công và giảm thiểu ảnh hưởng đến khu dân cư. Hướng tuyến được thiết kế “thẳng nhất có thể” để tiết kiệm chi phí và giảm diện tích đất thu hồi, nhưng vẫn đảm bảo kết nối với sân bay, cảng biển, và các tuyến đường sắt quốc tế (Trung Quốc, Lào, Campuchia).

Theo Nghị quyết số 142/2024/NQ-QH, UBND cấp tỉnh tổ chức lập, điều chỉnh quy hoạch phân khu, quy hoạch chi tiết vùng phụ cận ga đường sắt để xác định vị trí, ranh giới, diện tích đất thu hồi. Trong vùng phụ cận, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh được quyết định các chỉ tiêu quy hoạch, kiến trúc, hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội bảo đảm đáp ứng về hệ thống hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội; điều chỉnh chức năng sử dụng các khu đất trong vùng phụ cận ga đường sắt để khai thác quỹ đất và giá trị tăng thêm từ đất.

Nếu không có cơ chế đặc thù về công tác này, việc giải phóng mặt bằng có thể kéo dài 3-5 năm do các vướng mắc về pháp lý và thiếu đồng bộ giữa các địa phương. Với cơ chế đặc thù, thời gian này có thể rút ngắn xuống 1-2 năm, tiết kiệm chi phí phát sinh khoảng 15-20% tổng chi phí giải phóng mặt bằng (ước tính 10.000-15.000 tỷ đồng). Điều này giúp tiết kiệm 15-20% chi phí giải phóng mặt bằng (10.000-15.000 tỷ đồng) và rút ngắn thời gian xuống 1-2 năm.

Một điểm quan trọng cần áp dụng cơ chế đặc thù nữa là nguồn nguyên vật liệu chính cho dự án khi dự án này nhu cầu khổng lồ gồm: 9,7 triệu m³ cát, 80 m3 đất đắp, 5-7 triệu tấn thép, hàng triệu tấn xi măng, cùng với sỏi và đá để xây dựng các tuyến đường, cầu, hầm và nhà ga.

Nhà nước đã đưa ra các chính sách linh hoạt nhằm đáp ứng nhu cầu vật liệu xây dựng, tập trung vào ba nhóm cơ chế chính: Tối ưhóa khai thác các mỏ đã được cấp phép; Cấp phép nhanh cho các mỏ chưa được khai thác và quản lý khai thác cát, sỏi lòng sông.

Những cơ chế đặc thù này không chỉ đảm bảo nguồn cung vật liệu xây dựng mà còn mở ra cơ hội lớn cho các nhà đầu tư trong lĩnh vực khai thác và cung ứng khoáng sản. Việc đơn giản hóa thủ tục hành chính và tối ưu hóa quy trình khai thác giúp giảm rủi ro, tăng hiệu quả đầu tư và đảm bảo tiến độ dự án. Tuy nhiên, các doanh nghiệp cần tuân thủ nghiêm ngặt quy định pháp luật để tránh các rủi ro liên quan đến môi trường và quản lý tài nguyên.

Cơ chế đầu tư đặc thù cho dự án đường sắt cao tốc Bắc – Nam là một bước đi chiến lược để vượt qua các rào cản về vốn, lựa chọn hình thức đầu tư, thủ tục, và công tác giải phóng mặt bằng, đảm bảo dự án hoàn thành đúng tiến độ vào năm 2035.

Các chính sách này không chỉ giúp huy động nguồn lực hiệu quả mà còn tạo động lực cho phát triển kinh tế, công nghiệp, và đô thị hóa. Tuy nhiên, để thành công, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bên, minh bạch trong quản lý, và đầu tư mạnh mẽ vào đào tạo nhân lực. Với tầm quan trọng chiến lược của dự án, việc triển khai các cơ chế đặc thù cần được giám sát chặt chẽ để đảm bảo hiệu quả kinh tế – xã hội lâu dài

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *