Chuyên gia dự báo tăng trưởng kinh tế quý II có thể lên tới 6,3%
Ngọc Bảo 10:09 | 15/06/2024 Doanh Nhân Việt Nam trên

Theo TS. Cấn Văn Lực, Chuyên gia kinh tế trưởng BIDV, tăng trưởng GDP quý II có thể đạt 5,9 – 6,3% nhờ các yếu tố rủi ro bên ngoài được dự báo và trong tầm kiểm soát; các động lực tăng trưởng cả truyền thống và mới được khai thác, phát huy hiệu quả cao hơn.
Sau quý I với tốc độ tăng trưởng GDP ở mức 5,66%, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH&ĐT) đã cập nhật hai kịch bản tăng trưởng kinh tế năm 2024.
Cụ thể, ở kịch bản 1, tăng trưởng kinh tế cả năm dự kiến đạt 6%, tức là đạt cận dưới mục tiêu Quốc hội đề ra.
Để đạt con số này, 9 tháng cuối năm phải tăng khoảng 6,12%, trong đó tăng trưởng quý II là 5,85%, quý III và IV lần lượt là 6,22% và 6,28%, đạt mức cận dưới hoặc thấp hơn kịch bản đề ra tại Nghị quyết số 01 của Chính phủ.
Ở kịch bản 2, tăng trưởng kinh tế cả năm đạt 6,5%, cận trên mục tiêu Quốc hội đề ra.
Theo đó, 9 tháng cuối năm phải tăng khoảng 6,75%, trong đó, tăng trưởng quý II là 6,32%, quý III và quý IV lần lượt là 6,79% và 7,08%. Tăng trưởng các quý cao hơn khoảng 0,1 điểm % so với cận trên kịch bản đề ra tại Nghị quyết số 01 của Chính phủ.
Đến nay, dù số liệu thống kê chính thức chưa được công bố nhưng đã có nhiều dự báo về tăng trưởng GDP quý II/2024.
Nhiều dự báo tích cực
Mới đây nhất, Ngân hàng UOB (Singapore) dự báo tăng trưởng GDP quý II của Việt Nam sẽ ở mức khoảng 6%, cao hơn mức tăng trưởng GDP 5,66% trong quý I.
Lý giải về dự báo này, ông Suan Teck Kin, Giám đốc điều hành Khối nghiên cứu thị trường và Kinh tế toàn cầu, Tập đoàn UOB cho biết, dựa trên cơ sở các hoạt động kinh tế Việt Nam đang đi đúng hướng, dòng vốn FDI tích cực và Chỉ số Nhà quản trị mua hàng (PMI) trong lĩnh vực sản xuất đã tăng 4/5 tháng đầu năm, trong đó tháng 5 ở mức 50,3 điểm.
Bên cạnh đó, sản xuất công nghiệp tăng 8,9% so với cùng kỳ trong tháng 5, đánh dấu tháng tăng trưởng thứ ba liên tiếp trong năm 2024. Đồng thời, xuất khẩu hàng hóa ghi nhận tháng thứ ba tăng trưởng hai con số. Tính từ đầu năm đến tháng 5, xuất khẩu tăng 16% so với cùng kỳ và nhập khẩu tăng 18,6% so với mức âm trong cùng kỳ năm 2023.
Số liệu từ Tổng cục Thống kê cho thấy, tổng doanh số bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 8,7% so với cùng kỳ trong tháng 5, được hỗ trợ bởi lĩnh vực dịch vụ nhà hàng và lưu “trú, tăng 15,1% so với cùng kỳ năm 2023 và du lịch tăng 45,1% so với cùng kỳ năm ngoái.
“Dựa trên dữ liệu được công bố cho đến nay, chúng tôi duy trì dự báo tăng trưởng của Việt Nam ở mức 6% cho năm 2024”, UOB đưa kỳ vọng.
Còn theo Báo cáo đánh giá về Kinh tế Việt Nam quý I và dự báo cả năm 2024 của Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV, tăng trưởng GDP quý II sẽ tiếp tục khả quan, có thể đạt 5,9 – 6,3%, giúp GDP nửa đầu năm 2024 tăng 5,8 – 6,2%.
Ông Cấn Văn Lực, Chuyên gia kinh tế trưởng BIDV cho rằng nhờ các yếu tố rủi ro bên ngoài được dự báo và trong tầm kiểm soát; các động lực tăng trưởng (cả truyền thống và mới) được khai thác, phát huy hiệu quả cao hơn; và kinh tế vĩ mô tiếp tục duy trì ổn định, các cân đối lớn được bảo đảm, niềm tin của doanh nghiệp và người dân được củng cố….
“Cả năm 2024 có thể tăng 6 – 6,5% theo kịch bản cơ sở đạt mục tiêu do Quốc hội và Chính phủ đề ra hoặc có thể khả quan hơn, khoảng 6,5 – 7% ở kịch bản tích cực”, ông Lực dự báo.

Thiếu hụt các động lực tăng trưởng mạnh mẽ trở lại
Kém lạc quan hơn, TS. Nguyễn Quốc Việt, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) cho rằng, tăng trưởng GDP của Việt Nam năm 2024 chỉ trong khoảng 5,5 – 6% do tiếp tục phải đối mặt với một số thách thức như trì hoãn cắt giảm lãi suất của FED làm giảm xuất khẩu và đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, và xung đột địa chính trị trên thế giới diễn biến phức tạp và kéo dài, ảnh hưởng đến xuất, nhập khẩu và sản xuất của Việt Nam.
Trong bối cảnh đó, hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp vẫn đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức về thị trường, về nhân lực, công nghệ và vốn;.
“Đây là những vấn đề đáng báo động và sẽ tác động tiêu cực đến nền kinh tế trong trung và dài hạn và nó phản ánh sự thiếu hụt các động lực tăng trưởng mạnh mẽ trở lại, nếu để kéo dài sẽ nguy cơ suy thoái”, ông Lực quan ngại.

Về giải pháp, ông Việt cho rằng ưu tiên hàng đầu lúc này là tháo gỡ khó khăn, giảm gánh nặng cho các doanh nghiệp, tạo dựng niềm tin vào môi trường đầu tư để khuyến khích doanh nghiệp quay lại thị trường và mở rộng quy mô. Các chính sách hỗ trợ đặc biệt cho các doanh nghiệp cần cụ thể và khả thi (như chính sách hỗ trợ xuất khẩu khá thành công).
Về lâu về dài, các chính sách tổng thể nhằm nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh của ngành, doanh nghiệp và sức cạnh tranh của nền kinh tế là một điều kiện tiên quyết để thúc đẩy và nâng tầm chất lượng tăng trưởng của Việt nam trong giai đoạn tiếp theo.
Còn theo ông Cấn Văn Lực, từ nay đến cuối năm, Chính phủ cần đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công bởi đây vẫn là trợ lực chính cho tăng trưởng kinh tế khi cả nước dự kiến đẩy mạnh giải ngân gần 700.000 tỷ đồng, tăng 12% so với 2023.
Ngoài ra, chính sách tiền tệ sẽ là nhóm “bổ trợ” thông qua việc điều hành chủ động, linh hoạt, cho phép cơ cấu lại nợ (cho phép gia hạn đến hết năm 2024). Đồng thời, nâng cao hiệu quả phối hợp chính sách nhằm thúc đẩy tăng trưởng, ổn định vĩ mô, bình ổn tỷ giá…
Cùng đó cần tiếp tục đẩy mạnh hoàn thiện thể chế, kịp thời ban hành và thực thi hiệu quả hơn các chính sách, giải pháp tháo gỡ các vướng mắc, nhất là về pháp lý, định giá đất, hoàn thuế giá trị gia tăng, tiếp cận vốn phát triển nhà ở xã hội…
Ngoài ra cũng cần kết hợp thúc đẩy những động lực tăng trưởng mới như kinh tế số, tăng trưởng xanh, liên kết vùng, cải cách thể chế kinh tế, năng suất lao động, tăng đóng góp vào tăng trưởng.
“Nếu phát huy, khai thác tốt các động lực tăng trưởng mới này, GDP có thể tăng thêm từ 0,9 – 1,4 điểm % trước mắt trong bối cảnh toàn cầu đang suy giảm cũng như lâu dài”, TS. Cấn Văn Lực ước tính.
Bài viết liên quan

Thủ tướng Phạm Minh Chính gặp Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump
27/10/2025

Thủ tướng Phạm Minh Chính tham dự Hội nghị Cấp cao ASEAN 3 với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc
27/10/2025

Phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm với đại biểu tham dự Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ 7
27/10/2025

Nếu như tuần trước giá vàng liên tục phá đỉnh thì tuần này giá vàng trải qua cú lao dốc mạnh. Chuyên gia cho rằng nhà đầu tư nên cẩn trọng khi tham gia thị trường vàng trong giai đoạn này. Giá vàng biến động mạnh Hai tuần qua đánh giá giai đoạn biến động mạnh của thị trường vàng trong nước và thế giới. Giá vàng thế giới liên tục thiết lập kỷ lục mới và tạo đỉnh lịch sử 4.400 USD/ounce vào ngày 21/10. Diễn biến giá vàng thế giới trong 6 tháng qua (Nguồn: Tradingeconomocs) Giá vàng miếng trong nước đạt đỉnh gần 155 triệu đồng/lượng (chiều bán ra) và 153,6 triệu đồng/lượng chiều mua vào. Tuy nhiên sau đó, giá vàng thế giới lao dốc mạnh xuống 4.100 USD/ounce vào ngày 22/10 do áp lực chốt lời. Điều này kéo giá vàng miếng trong nước cũng giảm theo xuống 148,6 triệu đồng/lượng. Tính đến ngày 25/10, giá vàng miếng trong nước phục hồi hồi nhẹ lên 149 triệu đồng/lượng. Số liệu: Wichart, SJC (Tố Tố tổng hợp) Những biến động mạnh của thị trường vàng vừa qua được đánh giá tiềm ẩn rủi ro. Trao đổi với chúng tôi, chuyên gia tài chính TS. Nguyễn Trí Hiếu, phân tích “cú sập” của giá vàng vừa qua là do áp lực chốt lời của các nhà đầu tư. Bên cạnh đó, những vấn đề địa chính trị cũng đã có dấu hiệu ổn hơn, giúp hạ nhiệt nhu cầu tìm đến tài sản trú ẩn an toàn. Ngoài ra, chỉ số USD Index cũng tăng trong mấy ngày vừa rồi. Chuyên gia cho rằng tất cả những yếu tố đó đã làm hạ nhiệt vàng thế giới và vàng trong nước cũng giảm theo. “Những người đã mua ở vùng giá cao, có lẽ cũng nên xác định ngưỡng chịu đựng để cắt lỗ. Còn những người nào chưa có vàng mà mua vào ở thời điểm này cũng nên thận trọng”, ông Hiếu cho biết. Ông nói thêm rằng không có gì có thể đảm bảo chắc chắn rằng đà giảm của giá vàng đã kết thúc. Trong khảo sát mới đây của trang Kitco News, một số chuyên gia cho rằng giá vàng trong ngắn hạn đang tiềm ẩn rủi ro giảm giá. Ông Adrian Day, Chủ tịch Adrian Day Asset Management, dự đoán giá vàng sẽ giảm trong ngắn hạn. “Có thể giá vàng sẽ còn yếu thêm một chút trước khi hình thành mặt bằng giá mới. Tôi không kỳ vọng đợt điều chỉnh này kéo dài hay sâu” ông nói. Ông Marc Chandler, Giám đốc điều hành tại Bannockburn Global Forex, nhận định “Giá vàng đã chấm dứt chuỗi tăng kéo dài chín tuần liên tiếp vào tuần trước, và khá tiêu cực. Điều này dường như xuất phát từ hoạt động định vị của thị trường hơn là yếu tố vĩ mô. Trên thị trường giao ngay, giá vàng đã chạm đáy gần 4.000 USD/ounce hôm thứ Tư. Tôi kỳ vọng giá sẽ vượt mốc 4.200 USD, lý tưởng nhất là 4.240 USD, để xác nhận vùng đáy mới đã được hình thành.” Ông Sean Lusk, đồng giám đốc bộ phận phòng ngừa rủi ro thương mại tại Walsh Trading, cho rằng vàng đã đến lúc cần một đợt điều chỉnh, và việc dự đoán hướng đi tiếp theo của giá ngày càng trở nên khó khăn. “Diễn biến giá tại thị trường chứng khoán đang hoạt động cực kỳ tốt. Tôi nghĩ nền kinh tế đang làm tốt hơn nhiều so với kỳ vọng — diễn biến cổ phiếu đã phản ánh điều đó. Ngay cả đồng USD cũng chưa suy yếu. Giá kim loại đã rời xa mức đáy, vẫn ở mức cao, nhưng câu hỏi là liệu thị trường có bắt đầu tách khỏi diễn biến của chứng khoán hay chưa. Đến lúc này thì chưa. Chúng ta đã giảm nhẹ khỏi vùng đỉnh sau giai đoạn bị mua quá mức, nhưng nhìn chung thị trường vẫn giữ được nhịp,” ông nói. Đó là thị trường thế giới, còn đối với thị trường trong nước, một rủi ro khác có thể khiến giá vàng giảm chính là nguồn cung vàng trong thời gian tới có thể tăng lên. Với Nghị định 232, chính sách Nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất nhập khẩu vàng nguyên liệu được xoá bỏ. Điều này đồng nghĩa nguồn cung vàng tăng lên, giải toả phần nào nhu cầu tích trữ của người dân, qua đó giá cũng được kỳ vọng hạ nhiệt. “Nếu mà nguồn cung vàng dồi dào hơn, giá vàng sẽ bớt biến động mạnh như thời gian vừa qua”, ông Hiếu nói. Hiện tại, giá vàng trong nước đang cao hơn khoảng 18 triệu đồng/lượng so với thế giới do nguồn cung trong nước vẫn còn hạn chế. Mặc dù vậy, ông cho rằng trong ngắn hạn nguồn cung vàng vẫn chưa quá nhiều ngay cả khi đối tượng được phép nhập khẩu vàng nguyên liệu đã được mở rộng sang doanh nghiệp và ngân hàng thương mại có đủ điều kiện. Do đó, việc thu hẹp khoảng cách giá vàng giữa hai thị trường sẽ cần thời gian. Chiến lược mua vàng Trong bối cảnh hiện tại, chuyên gia cho rằng nhà đầu tư cần xác định khẩu vị rủi ro mục tiêu của mình để quyết định có nên mua vàng hay không. Ông Hiếu cho biết có ba mục tiêu trong đầu tư là: an toàn vốn, tạo ra lợi nhuận và đảm bảo tính thanh khoản. Nhà đầu tư có thể chọn mục tiêu nào được ưu tiên nhất để từ đó đưa ra quyết định trong đầu tư vàng. Sau khi đã xác định được mục tiêu, nhà đầu tư cần xác định khẩu vị rủi ro ở mức nào để từ đó xem xét mức giá hiện tại đã phù hợp hay chưa. “Tuy nhiên, không nên để trứng vào một giỏ mà chia ra các kênh khác nhau như chứng khoán, bất động sản, tiết kiệm. Bên cạnh đó, với mức độ biến động giá ở thị trường vàng hiện tại, nhà đầu tư cần theo dõi sát thị trường bởi giá có thể tiếp tục xuống và chúng ta không thể biết được khi nào là chạm đáy”, ông Hiếu chia sẻ. Tuy nhiên, ông cho rằng một số yếu tố hỗ trợ giá vàng vẫn còn như tình hình bất ổn địa chính trị trên thế giới vẫn chưa giải quyết dứt điểm, chính phủ Mỹ vẫn đang đóng cửa….
27/10/2025

Trả lời