Các chuyên gia nói gì về áp lực lạm phát năm nay?
Ngọc Bảo 09:43 | 21/05/2024 Doanh Nhân Việt Nam trên
Theo chuyên gia Nguyễn Quốc Việt, lạm phát kỳ vọng ở giá cả đầu vào cho đến giá dịch vụ và tăng lương sẽ có thể tác động lên lạm phát thực của quý còn lại và gây áp lực lên lạm phát cả năm.
Tại báo cáo Triển vọng kinh tế Việt Nam năm 2024, các chuyên gia từ Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) đánh giá, dù về mặt tổng thể lạm phát đã được kiểm soát trong mục tiêu của Chính phủ trong 4 tháng đầu năm. Tuy nhiên, áp lực lạm phát đang lớn dần, đòi hỏi các giải pháp kiểm soát giá hàng hóa, dịch vụ.
Nỗi lo lạm phát tăng cao
Lý giải cho dự báo này, ông Nguyễn Quốc Việt, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh tế và chính sách (VEPR), cho rằng trong năm 2023, lạm phát kiểm soát được dưới mục tiêu phần lớn là do kinh tế thế giới suy thoái và kinh tế trong nước không đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế đề ra.
Còn trong quý I, kinh tế trong nước đã có nhiều điểm sáng về sản xuất công nghiệp, xuất khẩu và thu hút FDI, …tạo ra kỳ vọng mục tiêu tăng trưởng GDP sẽ đạt, thậm chí vượt mục tiêu (6 – 6,5%) mà Quốc hội và Chính phủ đề ra. Điều này cũng tạo ra áp lực cho lạm phát trong năm 2024.
Đáng quan ngại, những áp lực và rủi ro bên ngoài như cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn tiếp tục gay gắt, xung đột quân sự Nga – Ukraine và tại dải Gaza kéo dài, bất ổn leo thang trên Biển Đỏ là những yếu tố tiềm ẩn rủi ro tạo nên cú sốc cho lạm phát của thế giới khi chuỗi cung ứng bị gián đoạn.
Giá nguyên vật liệu đầu vào thế giới đang ở mức cao trong khi tình hình kinh tế, chính trị trên thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp. Trong khi Việt Nam là nước nhập khẩu nhiều nguyên liệu phục vụ sản xuất nên biến động của giá hàng hóa trên thế giới sẽ ảnh hưởng đến chi phí, giá thành, tạo áp lực cho sản xuất của doanh nghiệp và từ đó đẩy giá hàng hóa tiêu dùng trong nước tăng lên.
Bên cạnh đó, USD tăng giá làm tăng chi phí nhập khẩu nguyên nhiên vật liệu, gây sức ép lên mặt bằng giá hàng hóa trong nước. Chưa kể chủ trương tăng lương cơ bản và lương tối thiểu, điện… đặc biệt giá bất động sản một số nơi tại khu vực đô thị lớn đang có xu hướng tăng, cũng tạo ra cho áp lực lạm phát kỳ vọng trong xã hội.
“Chính lạm phát kỳ vọng ở giá cả đầu vào cho đến giá dịch vụ và tăng lương sẽ có thể tác động lên lạm phát thực của quý còn lại. Đây là những yếu tố cần phải theo dõi sát sao”, ông Việt nêu rõ.
Vì vậy, để kiểm soát lạm phát từ nay đến cuối năm, ông Việt cho rằng, bên cạnh kết hợp các chính sách tài khóa và tiền tệ hợp lý thì việc kiểm soát bình ổn các giá tài sản đặc biệt như tỷ giá, giá vàng là hết sức quan trọng.
“Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã bán dự trữ USD để bình ổn tỷ giá. Tuy nhiên, giải pháp cuối cùng là tăng lãi suất điều hành, nhưng sẽ ảnh hưởng đến các yếu tố vĩ mô khác như lạm phát và sự hỗ trợ cho phục hồi của doanh nghiệp. Do đó, NHNN vẫn chưa tính đến bước này”, ông Việt nhìn nhận.
Lạm phát không quá lo ngại
Ở góc nhìn lạc quan hơn, ông Cấn Văn Lực, Thành viên Hội đồng Tư vấn Chính sách Tài chính – Tiền tệ Quốc gia cho rằng, dù có nhiều rủi ro, song lạm phát của Việt Nam trong năm 2024 không quá lo ngại. Bởi trên thực tế, lạm phát trên thế giới đã giảm tương đối nhanh, giá năng lượng, giá lương thực thực phẩm về cơ bản thế giới thích ứng rất tốt, đã và đang kiểm soát rất tốt.
“Lạm phát của thế giới được dự báo giảm từ mức 5,7% của năm ngoái xuống 4% của năm nay. Vì vậy nhập khẩu lạm phát của Việt Nam là không đáng lo”, ông Lực nhìn nhận.
Trong nước, dù có 3 nhóm hàng hóa dịch vụ tăng giá nhanh thời gian qua là lương thực thực phẩm, giá nhà ở xã hội và y tế giáo dục, song lạm phát vẫn trong tầm kiểm soát do Việt Nam vẫn làm chủ được nguồn cung về lương thực thực phẩm và một số mặt hàng do nhà nước quản lý dự kiến tăng giá vẫn trong tầm kiểm soát.
Cùng với đó, dù nguồn cung tiền đã tăng lên nhưng vòng quay tiền vẫn chậm. Vì vậy, lạm phát sẽ chỉ từ 3,5 -4% hoàn toàn trong ngưỡng của Quốc hội và Chính phủ cho phép.
“Năm nay Chính phủ ưu tiên tăng trưởng và đương nhiên vẫn phải ổn định kinh tế vĩ mô. Vì vậy, không nên quá quan ngại về lạm phát đến mức chúng ta siết chặt. Như thế nó sẽ kìm hãm đà tăng trưởng đang phục hồi tốt của chúng ta năm nay”, ông Lực lưu ý.
Còn theo TS. Phạm Xuân Hòe, nguyên Phó Viện trưởng Viện Chiến lược ngân hàng cho rằng, dù NHNN đã 4 lần hạ lãi suất cơ bản và mặt bằng lãi suất huy động giảm nhanh song nhiều doanh nghiệp vẫn phải vay vốn với lãi suất khá cao, chỉ những doanh nghiệp thật sự tốt mới được vay lãi suất thấp từ 5 – 6% vốn ngắn hạn, còn doanh nghiệp thông thường cũng phải vay với lãi suất 7 – 8,5% trong ngắn hạn, thậm chí 9 – 10% đối với vốn trung – dài hạn.
“Nếu lấy lãi suất thực cho vay hiện nay trên thị trường trừ đi lạm phát vẫn còn khá cao, khoảng 3,5 – 4%”, ông Hòe tính toán.
Trong bối cảnh đó, tỷ giá tăng khiến chi phí đẩy (nguyên liệu đầu vào) cũng sẽ tăng và tiền lương bắt đầu cải thiện cũng như hiệu ứng tâm lý vẫn còn (lạm phát kỳ vọng) … sẽ là những yếu tố làm tăng lãi suất. Vì vậy, ông Hòe cho rằng Chính phủ cũng cần tính toán thay đổi về mức lạm phát mục tiêu (4 – 4,5%) lên mức cao hơn khoảng 5% (trong trường hợp cần thiết) để tạo dư địa cho chính sách tiền tệ hỗ trợ doanh nghiệp, thúc đẩy tăng trưởng.
“Nếu như lạm phát của Việt Nam ở mức tăng 5 – 5,5% mà tăng trưởng GDP ở mức 7 – 8% thì tốt hơn nhiều lần với mức lạm phát giữ ở mức 4% – 4,5%”, ông Hòe nêu rõ.
https://www.facebook.com/v3.0/plugins/like.php?action=like&app_id=&channel=https%3A%2F%2Fstaticxx.facebook.com%2Fx%2Fconnect%2Fxd_arbiter%2F%3Fversion%3D46%23cb%3Df00767acdbb102f86%26domain%3Ddoanhnhanvn.vn%26is_canvas%3Dfalse%26origin%3Dhttps%253A%252F%252Fdoanhnhanvn.vn%252Ffd925e8882d5acbd6%26relation%3Dparent.parent&container_width=0&href=https%3A%2F%2Fdoanhnhanvn.vn%2Fcac-chuyen-gia-noi-gi-ve-ap-luc-lam-phat-nam-nay.html&layout=button&locale=en_US&sdk=joey&share=true&size=small&width=